Responsive Navbar with Dropdown

Home About

Responsive Topnav with Dropdown




**~***** Việt Nam Quê Hương Tôi ******  Vietnam My Native Land ****** Vietnam Mon Pays Natal ********* Vietnam **** ******   Việt Nam  *** 



Monday, February 1, 2016

Bảo Lộc _Tỉnh Lâm Đồng


Bảo Lộc_Tỉnh Lâm Đồng



-Bảo Lộc_1971_"Kinh Thựơng Đoàn Kết"   :

Bao Loc 1971 - photo by tellico
- Tượng đài : "Kinh Thựong Đoàn Kết _An Cư _ Lạc Nghiệp " 
tại ngã tư trứơc Toà Hành Chánh Tỉnh Lâm Đồng.
Hiện nay không còn nữa, Việt Cộng đã phá hủy.

-Toà Hành Chánh Tỉnh Lâm Đồng tại Bảo Lộc ngày xưa...

(Năm 1970)..
.



Bảo Lộc Town - Lâm Đồng 1970 - Photo by Don Fenno




Bao Loc 1969 - photo by Ron Sanders 

Tượng đài : Kinh Thựong Đoàn Kết _An Cư _ Lạc Nghiệp  tại ngã tư trứơc Toà Hành Chánh Tỉnh Lâm Đồng_Hiện nay không còn nữa,Việt Cộng đã phá hủy.


-Hoa Nở Muôn Màu :
Muôn Màu Hoa Nở


-Xem :-Bản Đồ Google : Bảo Lộc,Tỉnh Lâm Đồng,Việt Nam






Bảo Lộc

Bảo Lộc (tên cũ: B'Lao) là một thành phố trực thuộc tỉnh Lâm Đồng.

Lịch sử:

Bảo lộc, trước đây là một vùng đất rộng lớn từng được biết đến với tên gọi B'lao, là địa bàn sinh sống chủ yếu của người dân tộc Mạ.
Ngay từ giữa thế kỷ XIX, trong quá trình mở mang bờ cõi nhà Nguyễn đã thiết lập các phủ, huyện, các thuộc để quản lý các vùng đất này.
Vào những năm 1877, Nguyễn Thông đã từng dâng sớ xin lập đồn điền khai khẩn vùng thượng du Sơn quốc nhưng không thành (trong đó có vùng đất Di linh).
Đến năm 1893, bác sĩ Alexandre Yersin khảo sát vùng cao nguyên Lâm Viên đã tìm ra Đà Lạt và cùng lúc phát hiện ra vùng đất B’lao. Vùng đất B’lao đã được người Pháp đặt vấn đề khai thác sớm cùng một lúc với việc xây dựng đô thị Đà Lạt.
Năm 1899 một phái đoàn người Pháp do ông Ernest Outrey chỉ huy, mở cuộc thám hiểm tìm hiểu khả năng vùng Đồng Nai Thượng và vạch một con đường nối liền vùng này (Djiring) với Bình Thuận (Phan Thiết).

Ngày 1/11/1899, toàn quyền Paul Doumer ký quyết định thành lập tỉnh Đồng Nai Thượng (Haut Donnai) trong đó bao gồm vùng đất B’lao và đặt tỉnh lỵ tại Djiring.

Đến năm 1905, tỉnh Đồng Nai Thượng bị bãi bỏ, Djiring và B’lao lại được sát nhập vào tỉnh Bình Thuận.
Đến năm 1920 Tỉnh Đồng Nai Thượng (Haut Donnai) lại được tái lập với 3 đại lý hành chính: 3 quận B’lao (Bảo Lộc), quận Djiring (Dilính) và Quận Dran Fyan (Đơn Dương). Tỉnh Đồng Nai Thượng vẫn đặt tỉnh lỵ tại Djiring (Di Linh).
Lúc này địa giới B’lao rất rộng, bao gồm một phần đất thuộc quận Tánh Linh (Bình Thuận), một phần đất thuộc Quận Định Quán (Long Khánh).Cùng thời gian này, năm 1916 Đà Lạt trở thành tỉnh ly của LangBiang.

Năm 1932, tuyến đường từ Sài Gòn lên Đà Lạt qua Bảo Lộc (quốc lộ 20 hiện nay) được hình thành.
Cho đến năm 1950, Bảo Đại tách tây nguyên thành lập Hoàng triều cương thổ trực thuộc quốc trưởng, bộ máy hành chính B’lao vẫn giữ chức trách một đại lý hành chính của chính quyền thuộc địa.
Đến ngày 19/5/1958, chính quyền Ngô Đình Diệm đổi tên tỉnh Đồng Nai Thượng thành tỉnh Lâm Đồng, sau đó ngày 30/6/1958 tách quận Dran (Đơn dương) ra khỏi tỉnh Lâm Đồng sát nhập vào tỉnh Tuyên Đức.

Tỉnh Lâm Đồng còn 2 quận: B’lao đổi thành Bảo Lộc và Djiring thành Di Linh. Địa giới tỉnh, quận vào thời gian này cũng có sự điều chỉnh. Quận Bảo Lộc cắt một phần đất giao cho Tánh Linh của tỉnh Bình Tuy, một phần giao cho quận Định Quán của tỉnh Long Khánh. Quận Bảo Lộc còn từ Madaguoil (Dahuoai hiện nay) trở lên. Cũng từ thời điểm năm 1958 trở về sau, mãi cho đến năm 1979 địa danh B’lao không còn trên các văn bản hành chính.

Ngày 30/11/1958 Bảo Lộc được chọn làm tỉnh lỵ của tỉnh Lâm Đồng. Tên gọi Bảo Lộc chính thức thay thế tên B’lao từ ngày 19/2/1959. Công việc kiến thiết mở mang đô thị mới cũng bắt đầu phát triển mạnh từ thời gian này.

Cư dân ở vùng đất B’lao Bảo Lộc ban đầu chủ yếu là người dân tộc bản địa Mạ và Kơ Ho, trong đó người Mạ chiếm đa số. Địa vực của người Mạ từ xa xưa đã ở trong vùng Cát Tiên - Dateh trở xuống phía Đồng Nai. Khi có vương quốc Phù Nam, người Mạ mới thiên cư lên vùng Cao nguyên Di Linh địa phận Bảo Lộc, Bảo Lâm ngày nay. Dân tộc Mạ là một cộng đồng người thống nhất, có một tên gọi chung, một ngôn ngữ chung và ý thức chung. Bên cạnh việc bảo lưu những giá trị văn hóa vật thể đặc sắc dân tộc Mạ còn giữ gìn một kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian rất phong phú với nhiều truyền thuyết, thần thoại, cổ tích, dân ca, gian dao nhiều nhạc cụ cổ truyền phong phú như đàn đá, chiêng...

Cư dân người kinh ở B’lao vào thời kỳ ban đầu hầu như không đáng kể. Mãi đến năm 1930, B’lao mới chỉ có khoảng 8 gia đình người kinh. Năm 1936 có 20 gia đình. Môi trường dần được cải thiện nên công nhân từ các nơi đến lập nghiệp ngày càng đông,nhất là người bắc sau khi đã mãn hợp đồng ở Cămpuchia không về xứ mà tìm lên B’lao...

Năm 1930 Nha Khảo cứu Đông Dương thành lập tại Công Hinh (B’lao) một Trung tâm thực nghiệm Nông học rộng khoảng 1.000 Ha (sau trở thành Trường Quốc gia Nông Lâm Mục vào năm 1955);

Quốc lộ 20 chính thức được khai trương vào tháng 7 năm 1932...
Năm 1938 đường bộ từ Sài gòn lên Đà Lạt qua đèo B’lao được hoàn chỉnh, từ đó đã tạo nên sức thu hút khá lớn dân cư vùng lân cận và kể cả việc tuyển mộ công nhân. Những năm sau đó hệ thống các đồn điền chè đã mọc lên khá tập trung tại khu vực Bảo Lộc...

Năm 1940 tiếp nhận thêm 20 gia đình, năm 1942, tiếp nhận thêm 80 gia đình. Những hộ này được bố trí tập trung tại khu vực trung tâm thực nghiệm nông học và các đồn điền trà.
Nhìn chung, trong thời kỳ 1945 - 1954, xây dựng cơ bản trên đất Lâm Đồng không đáng kể do cuộc chiến ngày càng bất lợi cho người Pháp...ở các vùng Djiring, B’lao, việc xây dựng hạ tầng phát triển đơn điệu, ít được đầu tư...đường giao thông chỉ là những con đường đất từ trung tâm thực nghiệm đến các đồn điền trà lân cận...

Đến tháng 9/1954 một sổ lớn đồng bào di cư được đưa đến định cư nâng tổng số dân lên đến 15.000 người. Sau đợt di cư, B’lao có khoảng 50 cơ sở trồng trà và đồng bào đến định cư đã lập thêm 6 làng: Tân Phát, Tân Thanh, Thánh Tâm. Tân Hà, Tân Bùi, Lam Sơn, sau này thành 5 xã.
Cho đến năm 1957 dân số B’lao đã tăng nhanh, lên đến 37.832 nhân khẩu, trong đó người dân tộc là 16.517 người.

Đến trước năm 1975 số dân B’Lao có 76.000 người, trong đó có 27.000 người dân tộc, đa số là người Mạ.
Năm 1979 có 77.513 người; năm 1989 có 128.587 người;
năm 1999 có 135.701 người.

Bảo Lộc chỉ được phát triển từ sau năm 1958, sau khi dời tỉnh lỵ từ Di linh về Bảo Lộc, trong đó có một số công trình sau :

-Tòa Hành Chánh Tỉnh xây dựng và hoàn thành năm 1959;
-Chợ cũ nằm gần Quốc lộ 20 bị cháy năm 1959 được xây dựng lại tại khu vực mới hiện nay hoàn thành vào năm 1961,
-Nhà Máy Điện Bảo Lộc xây dựng năm 1957,
-Nhà máy nước xây dựng năm 1962;
-1960 Bưu Điện Bảo Lộc được xây dựng.
-Từ năm 1963, bộ mặt Bảo Lộc đã khang trang hơn sau gần 4 năm xây dựng. Hệ thống đường nội thị bắt đầu được trải nhựa.
-Trong năm 1965, ở đây đã tiến hành sửa chữa và mở thêm một số tuyến đường từ trung tâm thị xã tới các xã như đường Thiện Lập, Tân Phát, Tân Rai, đường liên ấp Lam Sơn – Thiện Lập, đường Konhinđa, đường Thanh Hương, Thanh Xuân...

-Sân bay Bischenée được sửa chữa tu bổ năm 1964 chỉ sử dụng cho một số máy bay du lịch loại nhỏ(Cessna), va C-130 cargo plane...
-Sân bay Lộc Phát xây dựng năm 1966(Sân bay Bảo Lộc ,Trứơc 1975 còn gọi là Phi Trừơng KOHINDA Bảo Lộc) sử dụng cho máy bay quân sự...

Trước năm 1975, nhìn chung kinh tế của Bảo Lộc phát triển chủ yếu là ngành sản xuất chế biến chè. khai thác gỗ và lâm sản.Với ưu thế có một lịch sử khá lâu đời của cây chè, Bảo lộc có mấy chục nông trướng, đồn điền chè lớn nhỏ, vài chục cơ sở chế biến chè trên địa bàn hàng năm cung cấp một sản lượng chè đáng kể cho thị trường trong và ngoài nước. Các ngành nghề sản xuất khác như chăn nuôi gia súc, trồng dâu nuôi tằm, trồng và chế biến cà phê, hoạt động tiểu thủ công nghiệp khác chưa phát triển mạnh mẽ do nguyên nhân chiến tranh song cũng cho thấy những tiềm năng triển vọng của nó vào thời gian sau này.

Hoạt động văn hóa và thiết chế văn hóa trên địa bàn Bảo Lộc trước 1975 hầu như chưa có gì.
Những năm 1958 - 1960, ở Bảo lộc đã hình thành một rạp hát tư thiết kế bằng gỗ mang tên người chủ Lâm Đô nằm ở địa bàn phường B’lao ngày nay, bên cạnh quốc lộ 20, chủ yếu đón các gánh hát cải lương ở Sai gòn về biểu diễn phục vu..,
một sân tennis ở gần rạp hát chủ yếu cho công chức giải trí.

Về sau vào những năm 1970 một rạp chiếu phim mang tên Hoàng Huê có sức chứa 500 người được xây dựng ở khu chợ mới, trên đường Lê Hồng Phong, gần trung tâm văn hóa ngày nay được coi là thiết chế văn hóa giải trí duy nhất ở Bảo Lộc bấy giờ. Ngoài ra còn có một số cơ sở in typô của tư nhân, vài nhà sách đáp ứng nhu cầu của địa phương.

Thị xã Bảo lộc ngày nay là một trong sổ 11 huyện, thành, thị xã thuộc tỉnh Lâm Đồng, đồng thời cũng là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, công nghiệp xếp vào vị trí thứ hai của tỉnh Lâm Đồng sau thành phố Đà Lạt.

Thị xã Bảo Lộc nằm ở phía Tây Nam tỉnh Lâm Đồng, trên cao nguyên Di linh – Bảo Lộc, ở độ cao 800 mét so với mặt biển, gắn với trục quốc lộ 20 nối liền Saigon và Bảo Lộc; phía Bắc. phía Đông và phía Nam giáp huyện Bảo Lâm; phía Tây và Tây Nam giáp huyện Đa Huoai.

Với diện tích tự nhiên 232.4 km2, Thị xã Bảo Lộc có 11 đơn vị hành chính gồm 6 phường (Phường 1, phường 2, phường B’Lao, Lộc Phát, Lộc Tiến, phường Lộc Sơn) và 5 xã : Lộc Nga, Lộc Châu, Lộc Thanh, Đại Lào, xã ĐamBri.

Bảo Lộc có khí hậu quanh năm mát mẻ. không quá lạnh, cũng không quá nóng, nhiệt độ trung bình 22 – 24 độ C, Bảo lộc có lượng mưa khá lớn (2.762 mm), không có tháng nào không có mưa. Biên độ nhiệt giữa ngày và đêm khá lớn, trung bình là 10-30 độ C. Sương mù xuất hiện ở Bảo Lộc nhiều nhất tỉnh do độ ẩm cao, trung bình mỗi năm có 85 ngày có sương mù tập trung vào những tháng cuối mùa mưa.
Bảo Lộc có nhiều thắng cảnh như đèo Bảo Lộc, thác Đam Bri, hồ Nam Phương, suối Đá Bàn, núi Đại Bình (S'pung)... cùng với những đồi trà thoai thoải xanh mượt mà làm cho Bảo Lộc càng thêm xinh tươi, trù phú.

Trước đây, vùng đất Bảo Lộc bao gồm cả các huyện Bảo Lâm, Đạ Tẻh, Cát TiênĐạ Huoai bây giờ, là địa bàn cư trú của người Mạ.

-Sau năm 1975, Bảo Lộc là tên huyện của tỉnh Lâm Đồng hợp nhất. Sau đó, huyện lại tách thành các huyện Bảo Lộc, Đạ Huoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên.

Từ đó, huyện Bảo Lộc có 1 thị trấn B'lao và 15 xã: Lộc Tân, Lộc Tiến, Lộc Sơn, Lộc Phát, Lộc Châu, Lộc Thanh, Lộc Nga, Lộc Thắng, Lộc Lâm, Lộc Bắc, Lộc Ngãi, Lộc Đức, Lộc An, Lộc Thành, Lộc Nam.

- Ngày 11 tháng 7 năm 1994, Chính phủ quyết định chia huyện Bảo Lộc thành 2 đơn vị hành chính là thị xã Bảo Lộc và huyện Bảo Lâm, gồm 6 phường: 1, 2, B'lao, Lộc Phát, Lộc Sơn, Lộc Tiến và 4 xã: Đạm Bri, Lộc Châu, Lộc Nga, Lộc Thanh.

-Ngày 18 tháng 6 năm 1999, chia xã Lộc Châu thành 2 xã: Lộc Châu và Đại Lào.

-Ngày 8 tháng 4 năm 2010, chính phủ ra Nghị quyết 19/NQ-CP nâng cấp thị xã Bảo Lộc trở thành thành phố Bảo Lộc.

Sưu Tầm



Kinh Thượng Đoàn Kết - Bảo Lộc Town - Lâm Đồng 1968-69 - Photo by Jose Diaz.Nhà ngói phía sau là Ty Ngân Khố Bảo Lộc,Tĩnh Lâm Đồng





Bao Loc 1971 - photo by tellico



-Toà Hành Chánh Tỉnh Lâm Đồng tại Bảo Lộc _1970 :
Bảo Lộc - Lâm Đồng 1970 - Photo by Don Fenno



Hồ Đồng Nai – 1967/1968. Ảnh : J. Westenskow


Bờ hồ Bảo Lộc năm 1966.





                                                                        1966-1967 Hồ Bảo Lộc.

Bảo Lộc Lake - Bảo Lộc Town - Lâm Đồng 1968/69 - Photo by Jose Diaz


Câu Lạc Bộ Công Chức Tỉnh Lâm Đồng và Nhà Thủy Tạ tại Hồ Bảo lộc 1970.
-Bảo Lộc Lake - Bảo Lộc - Lâm Đồng 1970 - Photo by Don Fenno


Bảo Lộc Aerial - Photo by Peter A. Bird 1971


Chợ Bảo Lộc - Không Ảnh 1967 - Photo by Ken Thompson

Đường Cách Mạng trước chợ mới


Lemke - Baoloc Market 1971


Chợ Bảo Lộc 1969_Bao Loc Market.
BAO LOC by Ken Thompson


BAO LOC by Ken Thompson


BAO LOC by Ken Thompson



CHỢ BẢO LỘC

CHỢ CŨ, CHỢ MỚI
Từ năm 2014, một công trình đồ sộ chiếm lĩnh một khu đất rộng trung tâm của cả một khu vực rộng lớn của khu Đô thị mới Hà Giang Thành Phố Bảo Lộc, công trình này đang trong bước hoàn thiện, ai cũng biết đó là cái Chợ : Chợ Mới Bảo Lộc.Còn có tên gọi Chợ Trung Tâm Thành phố Bảo Lộc
Như vậy là xứ Blao này có thêm một cái chợ mới nữa!
Và cái chợ hiện tại nằm trên đường Lê Hồng Phong sẽ được mang tên cái chợ cũ là đương nhiên, nhưng với mọi thần dân của Blao ngày nào vẫn gọi tên chợ này là Chợ Mới từ năm 1960 đến giờ.
Một địa danh khác là Chợ Cũ vẫn còn được dùng, đó là vùng đất trước nhà thờ Bảo Lộc, trước UBND phường Blao, nó nằm trong góc tư của đường Trần Phú và đường Lý tự Trọng.
Nhắc lại rằng trước năm 1954 khu vục thuộc cánh nam con đường 20 trước văn phòng quận trưởng Blao là khu mua bán gồm các quán chạp phô của các vị khách trú là Hòa Ký, Bình Ký, Vận Ký, Ba Khình, Vĩnh thái.. còn người Việt thì có bà Nhơn Hương Giang, Ông Thợ Triêm, ông Thập Lân, Ông Xã Bắc, ông Hương Cu… Mạn bắc con đường là khoảng đất trống thuộc sở mới mà dọc đường phía đó được trồng cây muồng xiêm ( Cassia seame )dân thời ấy quen gọi là cây keo.
Nếu tính tiếp con đường nối dài từ văn phòng quận ra , qua đường 20 là một đường đất chạy ngang qua chuồng bò thẳng qua đồng cỏ của sở mới ( trước 1975 là đường Nguyễn Thái Học, nay là đường Lý Tự Trọng ) năm 1955- 1956 ngay đầu đường người ta mở rộng làm bến xe, song song đó thì một số nhà của được xây dụng quanh , hàng quán cũng theo quốc lộ cho đến trước nhà thờ.

Phần đất theo đó người ta bắt đầu họp chợ lấy nhà bò của sở mới là trung tâm . Đó cái chợ đầu tiên của xứ Blao nầy.

Cái chợ này thành hình cũng do dân cư nơi đây tăng vọt bởi lẽ sau hiệp định Geneve nhóm người di cư miền từ miền Bắc vào, ở ngay Blao, và các trại định cư quanh vùng bắt đầu thành lập, thêm vào đó một thể chế mới được thành hình vua Bảo Đại bị truất phế mở đầu cho chính thể cộng hòa. Chính chỗ phần đất họp chợ này trước kia là nơi tổ chức các cuộc mit ting biểu tình, cũng là chỗ các đoàn ảo thuật, sơn đông mãi võ thường đến diễn trò.Có một gian hàng bên cạnh bến xe chuyên bán cơm và thức uống được nhiều người biết đến của Mai Lan Phương –Ngọc Chiếu vốn là đào kép của một đoàn cải lương đến diễn tại Blao rồi tan hàng rả đám mở tiệm ăn.
Cái chợ này thành hình không lâu thì bị cháy khoảng 1957. May mắn chỉ cháy từ đường trung tâm vào chợ về phía tây đến tiệm ăn Mai lan Phương Ngọc Chiếu.

Lần thứ hai, lại cháy nhưng không nằm trong phạm vi chợ mà theo dãy phố của người hoa kiều ở mạn nam con đường QL 20 từ trước cổng quận cho đến gần cổng nhà thờ, lúc bấy giờ các nhà này đều làm bằng gỗ lợp tôn kẽm, xuất phát cháy đầu tiên tiệm Vĩnh Thái, là nhà của “cô Bảy Xếnh Xáng” một người phụ nữ Việt lấy chồng người Hoa. Sau vụ cháy, dãy phố này được xây dựng lại bằng gạch với các hiệu: Hòa Bình Ký, Bánh Mì Vĩnh Thái, nhà thuốc Lai Sanh,Vận Ký, Diệu Huê, Tam Hưng Tửu Gia, Tiệm vàng đồng hồ Phú Cường, tiệm sách Việt Cường.

Vào năm 1961 thì vụ hỏa hoạn lớn thiêu rụi khu vực chợ, thuộc mạn bắc con đừơng kéo dài từ bến xe cho đến trước cổng nhà thờ hình như nhà cuối cùng là nhà sách Văn Hóa của ông Nguyễn văn Kha, trước đó là tiệm tạp hóa rồi đến hiệu Giặt ủi Quang Trung, tiến về phía trung tâm chợ còn các tiệm may Minh Thu, tiệm may Thời Đại, tiệm giày Bình Lợi, tiệm phở Trung Việt… Vụ cháy lần này như một sự xóa sổ cái chợ cũ lụp xụp tạm bợ để tập trung về cái chợ được mang danh chính thức là chợ Bảo lộc đã được thành hình nằm trên đường cánh đông xuất phát từ tòa hành chính mang tên là đường Cách Mạng, hiện nay là đường Lê Hồng Phong (2015). Được gọi là chợ mới.

Sau vụ cháy đó, một số hiệu buôn từ chợ cũ chuyển sang là trà Quốc Thái, tiệm vàng Bào Ngọc, tiệm may Hưng Thành, hiệu giày Bình Lợi,may Thời Đại..Riêng hiệu giặt ủi Quang Trung không tiếp tục ,theo lời ông Vũ Bình Minh con trai của ông Vũ xuân Tưởng cho biết ba ông vào Nam trước năm 1940 làm việc ở xửơng Ba Son Sài Gòn, khi ông được 10 tuổi gia đình mới chuyển về Blao mở tiệm giặt ủi đó là tiệm giặt ủi đầu tiên xứ này, có thể trong nhóm dân di cư vào đất Blao lúc ấy có họ hàng thân thích với gia đình ? thời gian đó sau khi đậu tiểu học, ông học ở trường Cộng Hòa, chuyển ra Phan thiết, đậu văn bằng tú tài ông học sư phạm, đang dạy học bị động viên sau về tiểu khu Lâm Đồng. Nay ông bà Vũ Bình Minh là chủ cơ sở Chế biến Cà phê và Khách sạn Minh Quân trên đường Trần Phú gần bờ hồ Bảo Lộc.
Khu chợ mới Bảo lộc ( 1961 ) gồm một chợ lồng nơi bán quân áo hàng tạp hóa và một khu riêng bán hàng thực phẩm khô, thịt cá, rau cải… nay vẫn còn, trước mặt chợ là đường Lê Hồng Phong là dảy Kiosque ba mặt còn lại tiếp giáp với các đường Lê thị Pha, Phan Bội Châu, Nguyễn Công Trứ gồm các dãy phố hai tầng. Dãy phố hai tầng ấy cùng một kiểu cũng được xây từ đầu chợ theo đường Cách Mạng hướng vế tòa hành chính.

Trở lại cái chuồng bò của sở mới, là cái khung chính của chợ Blao ngày nào, nói là chuồng bò chứ thực ra là một cái khung nhà trống trơn chỉ có mái tôn và sườn cột. Ngày còn bé chúng tôi vẫn thường vào chơi nơi ấy sau khi tắm suối số 3, suối lò than hay lội rừng hái sim hái lan, hình như chỉ là chỗ cho bò nghỉ nắng vào trưa mà thôi, lúc ấy đàn bò của trường Nông Lâm Mục nhiều lắm có cả trâu Ấn độ nữa, mãi đến khi tôi vào học Nông Lâm Súc thì mới thấy cái chuồng nhốt bò ban đêm ở mé rừng sau lô trà số 2 gần chuồng ngựa.

Sau khi chợ dời đi họp ở nơi mới , thì khung chuồng bò ấy được gở đi cùng một phần nhà kho gần đó người ta xây dựng làm cái nhà thương đầu tiên ở xứ này, nó nằm trước nhà thờ. Phần nhà kho còn lại Linh mục Lan đã mượn trường Quốc Gia Nông Lâm Mục làm trường Trung học tư thục Cộng Hòa nằm trên đường Phát Diệm ( nay là đường Nguyễn văn Trỗi ) cùng lúc đó thị thượng tọa thích Giác Đức mở trường Tư Thục Bồ Đề tại chùa Phước Huệ,

Đến năm 1970, khi bệnh viện Bảo lộc được xây dựng xong sau tòa hành chánh ( nay là BV II Lâm Đồng ) thì bệnh viện trước nhà thờ trở thành khu ở tập thể của nhân viên bệnh viện. Sau năm 1975 là văn phòng làm việc của xã Thiện Thành rồi văn Phòng thị trấn Blao.

Câu chuyện lòng vòng chỉ có một xác nhà từ chuồng bò đến chợ, từ chợ đến nhà thương. Nên xin phép kể thêm rằng lý do nào lại làm cái nhà thương cạnh quốc lộ 20 trước nhà thờ có nghĩa là khu dân cư đông đúc ồn ào ? Sỡ dĩ lập nơi ấy vì trước đó có một trạm xá là nhà gỗ lợp tôn người dân bấy giờ gọi là nhà thương Phi Luật Tân vì do nhóm quân y Phi Luật Tân phục vụ. Thực sự trong thời Pháp thuộc dù gọi là nhà thương thí, nhưng cũng chỉ là trạm xá nó là căn nhà gỗ đầu đường vào sở Bảo Đại trước trừơng Quốc Gia Nông Lâm Mục.

Cái nhà thương Phi Luật Tân đó sau năm 1975 trở thành cái trạm xá của ấp Thiện Thành, cái nhà thương thí của Pháp không làm chức năng đó nữa từ khi có cái nhà thương Phi luật Tân và cái xác nhà của nó qua nhiều đời chủ : ông Nguyễn Đức Bích, từ 1973 ông Trần Hiệp giám đốc nhà thuốc sâu Chánh Hiệp Sài gòn, cuối cùng là của ông Tạ Chí Ba, sau năm 2000 mới thay hình đổi dạng.
Ngoài cái chợ mới như đã nói trên thì các khu định cư các xã lân cận cũng lập chơ như : Chợ Tân Bùi, Chợ Tân Hà, Chợ Đại Lào, chợ Tân Thanh… Bảo lộc là chợ trung tâm nên thường vào chủ nhật rất đông người đến mua sắm, các chợ khác chỉ họp vào buổi sáng chủ yếu cung cấp hàng thực phẩm nhu yếu, có một chợ được gọi là chợ chiều, vì nó chỉ họp vào buổi chiều nó nằm ngay khúc cua đầu tiên vào Ferme chủ yếu bán hàng thực phẩm cho những bà con gần đó, nay không còn nữa.

-VIEW :Chuyện Blao...Bùi Tho_pdf





Quốc Lộ 20, gần bờ hồ Bảo Lộc, năm 1970

QL20 HW - Bảo Lộc Town - Lâm Đồng 1970 - Photo by Don Fenno_Ngã Ba Tiên Dung (lấy tên Tiệm Ảnh "Tiên Dung"ngay đầu ngõ).

2012-02-15_Ngã Ba Tiên Dung (lấy tên Tiệm Ảnh "Tiên Dung"ngay đầu ngõ)
Nhà Thờ Bảo Lộc - Lâm Đồng 1967-68 - Photo by J. Westenskow

Nhà Thờ Bảo Lộc - Lâm Đồng 1967-68 - Photo by J. Westenskow


Tượng Ðức Mẹ Trong Hang Lộ Ðức Tại Giáo Xứ Bảo Lộc.
 - Photo by J. Westenskow

Shell Gas Station - Bảo Lộc District - Lâm Đồng 1967-68 - Photo by J. Westenskow.

...Một tiệm tạp hóa trên quốc lộ 20, gần nhà thờ Bảo Lộc, những năm trước 1970....

Bao Loc _ 1969.
-Phố Bảo Lộc 1969 (dãy phố giữa nhà thờ và quận Bảo Lộc)_Quốc Lộ 20.
( khu vục thuộc cánh nam con đường QL 20 trước văn phòng quận trưởng Blao là khu mua bán gồm các quán chạp phô
của các vị khách trú là Hòa Ký, Bình Ký, Vận Ký, Ba Khình, Vĩnh thái.. )


QL20 HW - Bảo Lộc Town - Lâm Đồng 1968/69 - Photo by Jose Diaz.(Nhìn Tháp Chuông Nhà Thờ cũ sẽ nhận ra khu này:Lối đi vào Quận Hành Chánh Bảo Lộc).

2017_March_Khu phố Bảo Lộc từ Cổng Quận Bảo Lộc chạy tới Nhà Thờ Bảo Lộc ngay nay.(Nhìn Tháp Chuông Nhà Thờ cũ sẽ nhận ra khu này)

Sân bay Bảo Lộc - Airfield (Photo by Peter Bird - 1971)


Bao Loc VN 1967
 Photo taken at Bao Loc in November/December 1967. C-123's and a C-130 are in the back ground. Our helicopters are parked in earthen revetments.

-PHOTO : Vietnam 117th AHC_91 photos.
Pictures from South Vietnam May 1967 to May 1968. 117th Assault Helicopter Company. 1st Aviation Brigade. United States Army.


Bao Loc VN Dec 1967 - 117th AHC
Vietnam December 1967. We lived in tents during our stay at Bao Loc. From Bao Loc we moved to the airforce base at Bien Hoa.

Bao Loc VN Dec 1967 117th AHC tents
 In Bao Loc we lived in these tents. For an aviation unit, we were roughing it. I spent Christmas Eve in one of these: Went out and looked at the stars and wondered what my family was doing so many thousands of miles away.


Sân bay Bảo Lộc Aerial - 1967

-US Army Helicopters  at  a Tea Plantation In Bao Loc  1967. Captain John Banke beside Dolphin 946 early in 1967 at the massive Bao Loc tea plantation raid (174th Assault Helicopter Company).

Sân bay Bischenée :


The picture on the above  is the old Frenchman’s air field from the air.

In 1966 and 1967 the runway was owned by a Frenchman, and leased to the Americans. In 1967 a new runway was constucted and opened just West of Bao Loc. Today the new runway is main street of a new village. The Frenchman’s airfield was less than 1000 feet long, with many deep ruts. We had no machinery so as to level the field. This is a picture of my crewchief washing my 0-1 with the stream water. See also a picture of my jeep. Look to the right of the runway, you will see the tea bushes. They were about the height of the top of the airplane wing. We always worried that the Vietcong would be hiding in the bushes, and then ambush us.








This picture is that of the C-124th that was delivering the 2.75” rockets to Bao Loc. The mission was unannounced. The Airfield was less than 1000 feet. The pilot reversed the props before he landed so as to land in the short runway. We told the pilot that we did not want the rockets on the airfield. He told us that he was not leaving with the rockets, “where do you want them”. We finally found that the rockets were for a future operation with the 101st Airborne. They subsequanctly canceled the mission.

SOURCE: VIETNAM CHRONICLES

CAPTAIN RICHARD L. KLOPPENBURG

SHORT STORIES FROM 1966-1967 IN VIETNAM






Tea Plantation Bao Loc Dec 1967
 Tea plantation near our tent city/temporary base at Bao Loc, Vietnam, December 1967.


A U.S. Air Force Cessna O-1F Bird Dog (s/n 57-2977) taking off at Bao (Loc?), South Vietnam. This aircraft was also used by the Air America as "Raven" aircraft (unregistered forward air control aicraft uses in Laos). It was later sold to the Royal Thai Air Force as "O-72977".


BAO LOC by Ken Thompson


C-130-Airstrip---Bao-Loc-RVN-67


Phi trường - Bảo Lộc - Air strip (Photo by Grapeman 1967)


BAO LOC by Ken Thompson_ Dam Rong Waterfall,Bao Loc,Lam Dong.


1969_Dam Rong Waterfall,Bao Loc,Lam Dong.




1972_Dam Rong waterfall, Bao Loc -Photos courtesy of Michael E. Tolle.
-VIEW : 

Viet Nam Memories and Photos - Michael E. Tolle



1972_Dam Rong waterfall, Bao Loc -Photos courtesy of Michael E. Tolle


Trung tâm thực nghiệm ( Ferme )
Theo hướng đi Đà Lạt khoảng 3 cây số nữa thì gặp ngã 3 rẻ về phía bắc (bây giờ là đường
Nguyễn văn Cừ Lộc Sơn -2014 ), giáp ranh với sở trà Pitchenée đến khu vực cầu đôi còn theo QL 20 đến Cầu Đại Ròn . 
Đó là lãnh địa của Trung Tâm Thực Nghiệm Canh Nông được thành lập trước năm 1929 người dân quanh vùng quen gọi nơi đây là " Phẹc " nó xuất phát từ chữ ferme ( nông trang, trang trại..) ở đó gồm văn phòng làm việc, các cơ sở thí nghiệm, vườn tiêu bản, khu vườn ương và cả khu nhà ở của quan chức và nhân viên nữa.


Trung tâm thực nghiệm ( Ferme )


Bao Loc 1969 by Morsen





BAO LOC by Ken Thompson


Aerial view of Camp Smith at Bảo Lộc, Vietnam, home of the 116th Engineer Battalion. (Photo by Sgt. Jake Cordova; courtesy of the author)
-SOURCE :The Ambush

SOURCE: From the archives: Members of the 116th Combat Engineer Battalion recall their experience in Vietnam






Bao Loc Convoy 1970 - Photo by George E. Wellock
(.Cầu Đại Nga ngày ấy.).

Xe khách ngày xưa

-VIEW : 54 giờ trong rừng Bảo Lộc_Phạm Công Khanh 64 C.


-VIEW:BAOLOC_May 1969_December 1970_Album #1_Photo by Don Fenno


-VIEW :BAOLOC 1969-1970__Album#2_ Photo by Don Fenno.

-VIEW :BAOLOC 1969-1970_Album#3_Photo by Don Fenno.





-VIEW :VIETNAM DALAT :SUR LES TRACES DU PASSE du 18 au 22-12-2016.(à Dalat et à Blao).



Après de nombreuses recherches, nous réussissons à localiser Blao, le petit village où tu as vécu. Situé à 120km de Dalat, le village se trouve tout près de la ville nouvelle de Bao Loc. En traversant la région, nous découvrons toutes les plantations de thé et de café.. Tu vois maman, le travail de grand père a porté ses fruits.. il y a toujours un peu de vous ici.  Blao nous plonge immédiatement dans un monde rurale attachant, toute l'activité tourne autour du café et du thé, d'ailleurs chaque maison a ses cultures dans le jardin, le café est même séché sur les routes du village. Uniques touristes dans le coin, nous attisons vite la curiosité, et ce n'est pas du café que nous récoltons mais de nombreux sourires et des "hello" à tout va, le thé nous est même offert. Nous passerons plusieurs heures à rechercher votre maison avec l'aide des habitants, sans malheureusement la découvrir.. La découvrir parce que certaines maisons d'époques sont encore debout mais éparpillées, et il ne serait pas étonnant qu'elle soit encore dans le coin.. Mais pour nous c'était déjà énorme de pouvoir revenir sur vos pas et de te faire partager ça.


- Khu Chợ Bảo Lộc  : 













Một góc đường Phan Bội Châu sáng sớm




Đường Lê Thị Pha nơi có cafe Ngọc Ký nổi tiếng



2004-05-04_Visiting Bao Loc Market and Bao Loc City, Lam Dong :






2015-August 9 at 9:05am_Ngày cuối cùng của khu chợ "chồm hổm" Bảo Lộc, kể từ ngày mai sẽ không còn nhìn thấy cảnh này ở đây nữa!






-VIEW : Photos of BAOLOC_Baoloc Where I used to live :




2015 Aug 15_New" Bao Loc Market"



Nhà thờ tin lành Bảo Lộc



-Mời xem Photos-Visiting Bao Loc City 2012-02-15

-Video clip : Tết 2012_ Bảo Lộc  :

Oct 17, 2015







-





  -  Trà Bảo Lộc  (2015):







-Hoa cà phê :





Thu Hoạch Cà Phê tai Bảo Lộc.

-Bảo Lộc Sky View - Demo_Oct 17, 2015.

Trà Đỗ Hửu ở Thành Phố Bảo Lộc

- ĐỖ HỮU - Câu Chuyện Của Chúng Tôi :






Trà Phú Sơn (FUSHAN) tại Bảo Lộc - Lâm Đồng


2010_12_03_Mr Quang Minh @ His Fushan Tea _ Bao Loc

-Thăm nông trường và nhà máy trà Phú Sơn tại Bảo Lộc - Lâm Đồng :


-Hoa Trà  :



Vietnam - Dambri Waterfall at Bao Loc by Drone 4K : __Oct 6, 2017.




- Du lịch thác Damb'ri (Bảo Lộc, Lâm Đồng) DAMB'RI _Jul 31, 2017

- Bao Loc CityNov 22, 2012 :


Áo dài Bảo Lộc_14-04-2013 :





-Thành phố Bảo Lộc (Lâm Đồng) ngày nay 2016


-Thành Phổ Bảo Lộc Lâm Đồng_ May 20, 2017




-Why Bao Loc is better than Dalat. Vietnam Travel :_
 Nov 28, 2015


-Thành Phố Bảo Lộc - Một Vòng Qua Góc Nhìn Drone Cam_Aug 17, 2017




-Dạo một vòng Bảo Lộc nào...August 27, 2017_by Drone :

-  Cùng khám phá Thành Phố Bảo Lộc_HD _2018 :









-Hồ Bảo Lộc :














- Hồ Bảo Lộc







2017_Bao Loc City from Above.

2017 June_Bao Loc Lake

 














-View: -SERI HOTEL_ KHÁCH SẠN SERI_TP BẢO LỘC .


-Bao Loc City_February 07, 2017: 


-Click on photo ---v            





- Bao Loc From Above :


Bảo Lộc nhìn từ trên cao.


Trung tâm Trà Và cà phê Tâm Châu, Bảo Lộc (B'Lao)









-VIDEO :Trà Tam Châu_




Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Bảo Lộc


-Lịch Sử Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Bảo Lộc :

Thị xã Bảo Lộc nằm ở phía Tây Nam tỉnh Lâm Đồng, trên cao nguyên Di linh - Bảo Lộc, ở độ cao 800 mét so với mặt biển, gắn với trục quốc lộ 20 nối liền thành phố Sàigon và Bảo Lộc.
Bảo Lộc có khí hậu quanh năm mát mẻ, không quá lạnh, cũng không quá nóng. nhiệt độ trung bình 22º-24ºC.  Bảo lộc có lượng mưa khá lớn (2.762 mm), không có tháng nào không có mưa. Biên độ nhiệt giữa ngày và đêm khá lớn, trung bình là 10º-30ºC. Sương mù xuất hiện ở Bảo Lộc nhiều do độ ẩm cao, trung bình mỗi năm có 85 ngày có sương mù tập trung vào những tháng cuối mùa mưa.
Năm 1930 Nha Khảo cứu Đông Dương thành lập tại Công Hinh (B'lao), một Trung tâm thực nghiệm Nông học rộng khoảng 1.000 Ha, đó là cơ sở đầu tiên, sau đó đã trở thành Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục vào năm 1955. Diện tích trường nếu kể cả các khu ngũ cốc , vườn cỏ, các thí điểm vườn ương, cây ãn trái, vườn cam, có thể nói rộng lên tới 200 mẫu tây tức khoảng gần 500 acres mẫu hoa Kỳ. Trường nằm bên trái trên đường vào thị xã Bảo Lộc, dọc trên quốc lộ 20, đường đi Di Linh/Đa Lat, ngay tại mốc cây số 187 km tính từ Saigòn. Du khách đi Dà Lạt, khi đi tới hồ Đỗ Hữu, là có thể nhìn thấy các dẫy biệt thự xinh xắn, đó là các dẫy nhà cũa các thầy cô. Có thể nói đây là một ngôi trường trung học về văn hoá và chuyên môn lớn nhất nước vào thời đó.
Trường được thành lập năm 1955 và đặt tên là trường Quốc Gia Nông Lâm Mục và đào tạo hai cấp bậc cao đẳng và trung đẳng từ năm 1955-1963. Theo thầy Đặng Quan Điện, nguyên Giám Đốc Nha Học Vụ Nông Lâm Súc, thầy là người đã khai sinh ra ngành giáo dục trung học kỹ thuật Nông Lâm Súc kể từ năm 1963, từ năm đó trường đã được đổi tên là trường Trung Hoc Nông Lâm Súc Bảo Lộc, và trực thuộc Nha Học Vụ Nông Lâm Súc, Bộ Quốc Gia Giáo Dục, qua một số nghị  định sau:
  • Nghị định số 136-BCTNT/NĐ/HC/2 ngày 26-3-62 của Bộ Cải Tiến Nông Thôn chuyển giao nhiệm vụ và cơ sở kỹ thuật Canh Nông và các học đường đặt thuộc quyền Bộ Quốc Gia Giáo Dục.
  • Nghị định số 1377-GD/PC/NĐ ngày 30-9-63 của Bộ QGGD tổ chức Nha Học vụ Nông Lâm Súc.
  • Nghị định số 1185-GD/PC/NĐ ngày 24-8-63 của Bộ Quốc Gia Giáo Dục cải tổ trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Bảo Lộc thành trường trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc.
Chương trình học gồm hai phần, phổ thông và chuyên môn.Học sinh tốt nghiệp với văn bằng Tú Tài II NLS, sau đó tùy theo điều kiện và khả năng, học sinh có thể tiếp tục theo đuổi chương trình Kỹ Sư 4 năm hay Kiểm Sự một năm hoặc chuyển qua một ngành nghề mới tại bất cứ một trường Đại Học nào.  Học sinh gia nhập trường NLS-BL phải qua một kỳ thi tuyển. Những năm đầu trường tổ chức thi tuyển vào ba hệ đệ Ngũ, đệ Tứ và đệ Tam, sau đó trường chỉ  còn 2 hệ, hệ đệ Ngũ học 5 năm và hệ Đệ Tam học 3 năm. Ở cấp trung học đệ nhị cấp, mỗi lớp gồm có 3 ngành: Thủy Lâm, Canh Nông và Mục Súc, và đến niên khoá 70-71 trường có thêm ngành Công-Thôn . Trường quy tụ các học sinh từ Sai gon cho đến các tỉnh miền Trung, Cao Nguyên, Đồng Bằng Sông Cửu Long, và điạ phương Lâm Đồng.
Có thể nói vào thời gian đó, trường trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc là một trường có tầm vóc to lớn, cơ sở đầy đủ và đẹp nhất cuả vùng Đông Nam Á Trường có hệ thống nhà ở cho hiệu trưởng và các thầy cô, và các nhân viên công chức làm việc cho trường.  Trường còn có hệ thống nội trú cho học sinh, được sắp xếp theo lớp từ Đệ Ngũ tới Đệ Nhất, gồm có 4 lưu xá cho nam sinh, A, B, C, D và một lưu xá E cho nữ sinh. Trường có Ban Đai Diện Truờng và ban Kinh Tế do hoc sinh bầu ra để đại diện cho học sinh và lo vấn đề cơm nước.
Trường có đầy đủ sinh hoạt về mọi lãnh vực như:
  • Thể thao gồm có các sân Đá Banh, Bóng Rổ, Chạy bộ, Quần Vợt, Volley, Võ đường
  • Văn Nghệ với một Đại Thính Đường với sức chứa khoảng 1000 người.
  • Giáo Dục với các phòng thí nghiệm sinh học, côn trùng, thú y, thực vật, lâm học; các trại chăn nuôi gà, thỏ, heo, ngựa và trâu bò, xưởng Nông Cơ.  Để gíup hoc sinh làm quen với thiên nhiên, trường còn có một hệ thống vườn rau cải, vườn cam, vườn café, và vườn trồng cây rừng giống, chưa kể bao chung quanh trường là hàng trăm hecta rừng thiên nhiên với đủ loại cây rừng và cây kỹ nghệ như trà và cà phê. 
Sau khi tốt nghiệp trung học, một số đông học sinh theo đuổi tiếp chương trình Kiểm Sự hay Sư Phạm Nông Lâm Súc; và sau đó trở về phục vụ tại Bộ Canh Nông, các Ty Nông Nghiệp/ Hạt Thủy Lâm, hoặc về các trường trung học Nông Lâm Súc trên toàn quốc từ các tỉnh vùng cao nguyên xuống tới vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sau biến cố 1975, một số thầy cô và anh chị đã định cư tại Hoa Kỳ và nhiều nơi khác trên thế giới; một số còn lại ở Việt Nam, tiếp tục hoạt động trong lãnh vực Nông Nghiệp, hoặc chuyển qua các ngành nghề tư nhân khác.
Hiện nay Trường đã được đổi tên là trường Trung Học Kỹ Thuật và Dạy Nghề của tỉnh Lâm Đồng.
[IMG]
-Trường Nông Lâm Mục ngày xưa, (thành lập năm 1955).
Sau đổi tên  là trường Nông Lâm Súc (1963) .




Trường Quốc Gia
Nông-Lâm-Mục B’Lao.
Hình chụp tháng 6/1959 trong Lễ Tốt nghiệp Kiểm Sự 2











TRƯỜNG QUỐC GIA NÔNG LÂM MỤC
NATIONAL COLLEGE OF AGRICULTURE
BẢO LỘC - 1965 .








Văn Phòng Trường Nông lâm Súc Bảo Lộc






Trường Quốc Gia Nông Lâm Súc Bảo Lộc-1965







Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục - Bảo Lộc - 1965











Căn biệt thự dành cho giáo sư (Trường Nông Lâm Súc)_Ảnh: Tran Van Chung sưu tầm.







1971_Nong Lam Suc. - MACV Advisory Team #38, Bao Loc_(U.S. Military Assistance Command, Vietnam : MACV-Photos courtesy of CW2 Gerd "Geb" "Wolfie" Wolf.

1970_Members of MACV Advisory Team #38, Bao Loc. -Photos courtesy of Michael Tolle.







The picture on the right is house #4, at the MACV compound. This is the house that I lived in, along with 11 other men.

The road to the airfield, from the Bao Loc MACV was approximately 1 ½ miles. We would get shot at at night, while traveling back to the MACV. Even during the day, we never established a time to go to or back to the MACV. The Viet Cong would be looking for a pattern---and then set up an ambush. I do note that I had a bullet hole in my jeep’s front window.

VIETNAM CHRONICLES

CAPTAIN RICHARD L. KLOPPENBURG

SHORT STORIES FROM 1966-1967 IN VIETNAM


10/8/1970-Tôi và các bạn cùng khóa bước vào ngôi trường NLS Bảo Lộc 


















Chụp hình kỷ niệm tại Đại Thính Đường trừơng Nông Lâm Súc Bảo Lộc





1967_Đại thính đường Trường Nông lâm Súc Bảo Lộc. Đây là mặt hông Đại thính đường trong khuôn viên trường.(ảnh Vũ Đức Thiện sưu tầm).


Bao Loc 1971 by Wolf_A

Hoàng Hoa Lộ_ Nông Lâm Súc Bảo Lộc

- VIDEO :Về thăm trường Nông Lâm Súc xưa : 








Mấy ngày thong thả, tôi và Sơn đi dạo khắp nơi để tìm nhà trọ. Thật đúng như lời của một bản nhạc "đi dăm phút đã trở về chốn cũ..." Phố Bảo Lộc nằm dọc theo quốc lộ, chỉ có một đoạn ngắn chưa đầy nửa cây số. Bắt đầu từ trường Nông Lâm Súc, chạy thoai thoải xuống dốc, đến cuối dốc là một cái hồ nước, trông giống như cái lòng chảo là hết. Lên dốc, hai bên là những đồi trà ngút ngàn. Lâm Đồng là xứ trà.....




 -Mời xem :Về Một Quảng Đời Của Trịnh Công Sơn_Nguyễn Thanh Ty.(Những   ngày Trịnh  lang thang  ở  Blao  (Bảo-Lộc )
Tĩnh Lâm Đồng_Người viết bài này có dịp gần gũi và sống chung với Trịnh Công Sơn một thời gian, từ năm 1962 đến 1967 , nên biết được đôi điều về cuộc đời thường của nhạc sĩ họ Trịnh này. )




Từ trái sang phảiNguyễn Hảo Tâm (hiện sống tại Austin, Texas), Nguyễn Thanh Ty (Tác giả viết bài này), Nguyễn Văn Ba, và Trịnh Công Sơn.    Ảnh chụp năm 1964,Tại Bờ Hồ Bảo Lộc,phía sau là Cầu trắng.







-Xem Phim Đất Khổ : Click on photo  v 
                                                                v         




XEM PHIM:  ball  Đất Khổ - VIETNAM: Land of Sorrows (1973)_Diễn viên : Trịnh Công Sơn đóng vai chính, Kim Cương,Bích Thuận, Vân Quỳnh, Xuân Hà, Minh Trường Sơn, Jerry Liles._
Truyện phim dựa trên cuốn :ball  Giải khăn sô cho Huế của Nhã Ca.pdf ( In lần đầu tại Sài Gòn 1969, giải thưởng văn học nghệ thuật quốc gia 1970) . 



-VIEW : ball  lịch sử phim Đất Khổ

image
Bản dịch tiếng Anh tác phẩm Giải khăn sô cho Huế của Nhã Ca,( nguyên bản tiếng Việt được xuất bản lần đầu tại Sài Gòn năm 1969).với tựa : Mourning Headband for Hue (Nxb Indiana University Press, 2014. 378 trang).dịch giả: Giáo sư Olgar Dror.



image
-Việt Cộng thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế 1968:chết hoặc mất tích là 6.700 người.



-VIDEO :Thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế_ "Tet Offensive Massacre in Huế"



-VIDEO :Loi keu goi cua Trinh Cong Son tren dai phat thanh Sai Gon ngay 30.04.1975
Nguyen Huu Thai DVM
Hình ảnh trưa ngày 30/4 năm 1975 tại đài phát thanh Sài Gòn, Nguyễn Hữu Thái cầm hồ sơ màu trắng, Dương Văn Minh đọc lời đầu hàng, sau đó Trịnh Công Sơn nói lời kêu gọi chào mừng quân giải phóng và hát bài Nối Vòng Tay Lớn…
TCS NHT
Trịnh Công Sơn và tên sát nhân đặc công Nguyễn Hữu Thái (đeo kính), một trong ba kẻ giết GS Nguyễn Văn Bông

TCS HPNT
Trịnh Công Sơn (trái) và tên sát nhân Hoàng Phủ Ngọc Tường (phải) tiếp tục thân thiết sau 1975. GS Bửu Ý ngồi cạnh TCS, tiếp theo là Nguyễn Trọng Tạo


-Mời xem :CỘNG SẢN NẰM VÙNG Nhạc Sĩ Trịnh Công Sơn – (Liên Thành)


-Mời xem:TRỊNH CÔNG SƠN, NGƯỜI BẠN, KẺ ĐỐI NGHỊCH_kim thanh_nguyễn kim quý.




co vnch photo: co vang 3 soc do VNCH 7wz33x1.gif



Định Quán Aerial - Long Khánh 1969-70 - Photo by Bill DeVoe



Định Quán Maket - Long Khánh 1969-70 - Photo by Bill DeVoe







Định Quán 1970  trên quốc lộ 20 Saigon - Bảo Lộc


Định Quán 1970



La Ngà Bridge - 1970

Ngã ba Dầu Giây đi Đà Lạt QL 20 và QL1/ Xuân Lộc


-VIDEO :Tổng hợp một số nhà thờ ở Bảo Lộc_2016

- Giáo xứ Bảo Lộc :

Năm 1958, Bảo Lộc được chọn làm tỉnh lỵ của tỉnh Lâm Đồng cũ, một vùng rộng lớn của tỉnh Đồng Nai Thượng ngày xưa, bao gồm cả huyện Đạ Huoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên và huyện Bảo Lâm mới được tách ra và thành lập sau này. Vùng Bảo Lộc xưa là nơi sinh sống chủ yếu của người Mạ.
Bảo Lộc đã được người Pháp đặt vấn đề khai thác khá sớm cùng một lúc với việc xây dựng đô thị Đà Lạt.
Năm 1899, một phái đoàn người Pháp do ông Ernest Outrey chỉ huy mở một cuộc thám hiểm tìm hiểu khả năng vùng Đồng Nai Thượng và vạch một con đường nối liền vùng này với Bình Thuận.
Ngày 1-11-1899, Toàn quyền Paul Doumer ký Quyết định thành lập tỉnh Đồng Nai Thượng, đặt tỉnh lỵ tại Djiring. Năm 1905, tỉnh Đồng Nai Thượng bị bãi bỏ, sáp nhập vào tỉnh Bình Thuận.
Năm 1920, tỉnh Đồng Nai Thượng được tái lập, gồm có 3 quận: BLao (Bảo Lộc), Djiring (Di Linh) và Dran - Fyan (Đơn Dương).
Ngày 19-5-1958, chính quyền Ngô Đình Diệm đổi tên tỉnh Đồng Nai Thượng là Lâm Đồng và sau đó tách quận Dran ra khỏi tỉnh Lâm Đồng, sáp nhập vào tỉnh Tuyên Đức. Tỉnh Lâm Đồng chỉ còn lại 2 quận: Bảo Lộc và Di Linh.
Ngày 30-11-1958, Bảo Lộc được chọn làm tỉnh lỵ của tỉnh Lâm Đồng và công việc kiến thiết mở mang đô thị mới cũng bắt đầu phát triển mạnh từ thời gian này.


Lược sử Giáo xứ Bảo Lộc



Nhà thờ Bảo Lộc , nằm trên quốc lộ 20, giữa thị trấn, nhà thờ Bảo Lộc được xây dựng từ năm 1994, khánh thành năm 1999, theo đồ án thiết kế của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, với một ít sửa đổi do kiến trúc sư Nguyễn Hồng Sơn. Qua đồ án, ông Ngô Viết Thụ "diễn tả nguyên tắc dùng hài hoà khối bằng kim số" một cách tinh vi và khoa học. Tuy mang dáng dấp kiến trúc Tây Phương, nhưng nhà thờ lại có những nét dân tộc độc đáo. Phía ngoài hình vuông tượng trưng cho đất. Phía trong hình tròn tượng trưng cho trời, được chống đỡ bởi 12 cây cột biểu hiệu cho 12 tông đồ gánh vác Giáo Hội. Nhà thờ có sức chứa 3 - 4000 người.

Sự hình thành Giáo Xứ Bảo Lộc gắn liền với sự hình thành vùng Blao, nên cũng có một lịch sử lâu đời và trải qua nhiều thay đổi.
Vào đầu thế kỷ 20, vùng Blao (được đổi lại là Bảo Lộc từ năm 1960) còn là rừng rú hoang dã, chỉ có dăm ba làng người dân tộc (như Công Hinh, Ðạ Bình, Công Hinh Ðăng, Công Hinh Ðà, Công Hinh Conteh, Công Hinh Blach, Công Hinh Blao) sinh sống rải rác.

Mãi đến năm 1930 người Pháp mới đến đây lập Trung tâm thực nghiêm Canh Nông. Rồi vài người Pháp khác đến mở đồn điền Cà Phê, vài ba trại công nhân (đa số là người dân tộc, chỉ có ít người kinh) được thành lập để mở quốc lộ.
Lúc ban sơ có một gia đình Công Giáo đầu tiên từ Phan Thiết theo đường mòn hiểm trở, đem thực phẩm Duyên Hải lên bán cho công nhân và sau ở lại hẳn trở thành gia đình người kinh đầu tiên định cư ở vùng này, đó là gia đình bà Tham Toản. Ít lâu sau, bà rủ thêm ông Giáo Cầm (tức là ông Ðồng Văn Giáp, cựu tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế, sau làm rể gia đình bà). Ông sẽ là thầy giáo và là chánh trương đầu tiên rất nhiệt thành trong việc dạy trẻ và dạy tân tòng cho đến năm 1981.

Năm 1934-1935, khánh thành quốc lộ, việc đi lại dễ dàng hơn: ban đầu 6 gia đình người kinh (3 gia đình là Công Giáo) kế đó thêm nhiều gia đình khác ồ ạt tới lập nghiệp. Thời gian này, cha xứ Jean Cassaigne và cha phó Nguyễn Vĩnh Tiên của họ Di Linh thỉnh thoảng xuống dâng lễ và chuẩn bị lập giáo xứ Blao.

Tháng 06-1936 nhà thờ Ðức Bà Công Hinh, Bổn mạng là Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp, bắt đầu được kiến thiết, với kinh phí do Mẹ Bề Trên Oiseaux Dalat đài thọ, và khánh thành ngày 15-08-1936, cả họ có 42 giáo dân, mỗi tháng có lễ một lần do hai cha từ Di Linh thay đổi nhau xuống làm.

Năm 1938 cha Jean Cassaigne mở trường sơ cấp đầu tiên gồm 4 lớp cho 40 em cả giáo lẫn lương: Một mình ông giáo Cầm ngày dạy chữ, đêm dạy tân tòng.



Nhà thờ Blao năm 1940.Source:http://thnlscantho-5.page.tl/Chuy%26%237879%3Bn-Blao-_-B%E0i-5.htm.




Năm 1940, thêm 70 gia đình công giáo và 30 gia đình lương được mộ từ Bắc vào làm công nhân. Cha Jean Cassaigne làm một nhà thờ thứ hai lớn hơn, mái ngói vách gỗ, và dùng nhà thờ cũ mở thêm 3 lớp học nữa. Thời gian này cha Jean Chauvel Thừa, phó xứ Di Linh lên xuống coi sóc họ đạo.

Năm 1941, cha Bùi Hữu Năng về làm cha xứ tiên khởi và ở luôn tại giáo xứ. Công Hinh Blao thành giáo xứ với 500 giáo dân, với ban chức việc đầu tiên do ông Giáo Cầm đứng đầu, với sự trợ giúp của hai nữ tu Mến Thánh Giá Thủ Thiêm.
Năm 1945, vì loạn lạc hầu hết lương giáo băng rừng chạy về Phan Thiết, đến năm 1946 mới hồi cư.

Tháng giêng năm 1946 cha Năng đổi xứ, Cha Phêrô Phan Văn Thời về thay thế nhưng chỉ sau hơn hai tháng lại từ nhiệm.

Tháng 05 năm 1948, cha Giacôbê Nguyễn Văn Mầu (nay là Giám Mục Vĩnh Long) về nhận xứ, đến 08-12-1949 đổi về Ðơn Dương. Cùng ngày đó Cha Phaolô Nguyễn Văn Ðậu đến thay thế và giáo xứ với số dân 750 người bắt đầu một giai đoạn mới:


Giáo xứ khởi công xây nhà xứ
Nhà thờ sắm quả chuông cung "đô" đầu tiên, đúng Giáng Sinh 1950 tiếng chuông ngân vang khắp vùng.
-Giáng Sinh 1957 khánh thành nhà thờ thứ ba dài 41m, rộng 14m, tháp cao 18m sau hơn ba năm xây dựng.

-Nhà Thờ Cũ_ (xây dựng, năm 1957)

-Tượng Ðức Mẹ Trong Hang Lộ Ðức Tại Giáo Xứ Bảo Lộc


Tượng Ðức Mẹ Trong Hang Lộ Ðức Tại Giáo Xứ Bảo Lộc.
 - Photo by J. Westenskow



Từ 1955 số giáo dân tăng nhanh, giáo xứ tách dần một số giáo khu thành những xứ mới: Thánh Tâm Lộc Tiến (1956), Trung Tâm truyền giáo Thượng (1968), Thiện Lộc (1973), Phúc Lộc (1971), Nam Phương (1970), Chân Lộc (1973).

Cha Phaolô Ðậu đã là cha xứ lâu nhất của giáo xứ so với các cha trước.


Cha Phaolô NGUYỄN VĂN ĐẬU_Bao Loc 1964






-VIEW :Chân dung linh mục Việt nam: Linh mục Phaolô Nguyễn Văn Đậu

Sau những năm đầu một mình cực nhọc vì một xứ đạo lớn mạnh nhanh chóng, vào cuối năm 1964, cha đã có cha phó đầu tiên là cha Augustinô Vũ Ngọc Quyền thụ phong ngày 20-12-1964; rồi đến năm 1971, khi cha Quyền đổi xứ, lại đến cha Antôn Nguyễn Ðình Uyển về thay thế, để phụ lực với cha cho đến ngày cha rời giáo xứ (29-03-1975).

Baoloc Catholic Church 1971_-Photos courtesy of Lemke.

Sau khi cha đi, ngày 09-04-1975, cha Giuse Vương Văn Ðiền về tạm coi xứ và sau 3 tháng được chính thức đặt làm quản xứ. Cha Antôn Uyển tiếp tục chức vụ phó xứ và tháng 08-1975 thêm Cha Nguyễn Công Linh cũng được bổ nhiệm làm phó xứ. Năm 1985, giáo xứ Bảo Lộc gồm trên dưới 4000 giáo dân và có 7 giáo khu, là một trong những giáo xứ đứng đầu giáo phận về số nhân danh.

Năm 1990, cha Antôn Uyển được cử phụ trách giáo xứ Nam Phương, trong khi vẫn phục vụ giáo xứ Bảo Lộc trong chức năng phó xứ. Năm 1991, cha Phêrô Linh được bổ nhiệm về làm phó xứ Tân Hà, và Cha Gioan Bosco Trần Văn Ðiện được bổ nhiệm về giáo xứ Bảo Lộc làm phó xứ.

Vì là giáo xứ có đông đảo tín hữu và là cái nôi sinh hoạt về Phụng vụ của cả giáo hạt, ngôi nhà thờ cũ đã trở thành quá bé nhỏ và chật chội. Cha Vương Văn Ðiền đã phác họa và khởi công xây dựng một ngôi nhà thờ mới có tầm vóc qui mô với mục đích qui tụ toàn Dân Chúa trong mọi sinh hoạt Phụng Vụ chung trong giáo hạt.
Ðầu năm 1995, chương trình xây dựng ngôi Thánh đường mới đã được khởi công, nhưng công trình mời vừa được thực hiện thì Ngài lâm trọng bệnh và qua đời tháng 02 năm 1996.
Tháng 04 năm 1996, Ðức Giám Mục Giáo Phận đã cử cha Giuse Nguyễn Hữu Duyên về làm quản xứ và tiếp tục công trình xây dựng này. Là một linh mục năng động và có tài quản trị, trong 4 năm, Ngài đã đưa công trình xây dựng ngôi thánh đường vĩ đại với sức chứa gần 4000 người đến giai đoạn chót. Tuy nhiên, giáo xứ Bảo Lộc vẫn rất cần sự tiếp tay của cộng đồng Dân Chúa khắp năm châu để hoàn tất giai đoạn chót này.



.........Một cuộc rước kiệu, tại Giáo Xứ Tân Thanh, năm 1956......

Ảnh: Do Thư Viện Giáo Xứ Tân Thanh cung cấp.
Trích đăng: Công Giáo Bảo Lộc.







-Nhà Thờ Cũ ( xây dựng, năm 1957):










-Nhà thờ Bảo Lộc mới (khánh thành năm 1999) :


-Năm 1993, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã thiết kế đồ án ban đầu để xây dựng nhà thờ Bảo Lộc là: phần nhà thờ có diện tích 60mx 60m= 360 m2, không kể công trình phụ là tháp chuông bên cạnh. Nếu thực hiện đúng thiết kế thì nhà thờ Bảo Lộc sẽ là nhà thờ lớn nhấtViệt Nam và Đông Nam Á. Nhưng khi mới chỉ thực hiện được 1 phần 20 của công trình thì linh mục Vương Văn Điền chánh xứ nhà thờ, người phụ trách quản lý trông coi việc xây dựng nhà thờ qua đời. Việc xây dựng nhà thờ do đó bị bỏ dở dang, công việc xây cất đã bị ngưng lại một năm
Năm 1995, chương trình xây dựng ngôi Thánh đường mới đã được khởi công, nhưng công trình mời vừa được thực hiện thì linh mục Vương Văn Ðiền bị bệnh và qua đời tháng 02 năm 1996.
Tháng 04 năm 1996, linh mục Giuse Nguyễn Hữu Duyên được bổ nhiệm làm quản xứ mới, đã tiếp tục công việc đang dang dở. Nhờ nỗ lực của linh mục quản xứ mới và sự cộng tác giáo dân trong và ngoài giáo phậnngôi thánh đường mới đã hoàn thành được những phần cơ bản và được đưa vào sử dụng để chuẩn bị đón mừng cho Năm Thánh 2000. Do khó khăn về tài chánh, nhà thờ đã được thu nhỏ lại, chỉ bằng 1/2 diện tích so với đồ án nguyên thủy.

-Ngày 31 tháng 05 năm 1999, giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn đã chủ sự thánh Lễ khánh thành và cung hiến nhà thờ Bảo Lộc[


Nhà thờ Bảo Lộc là một trong những nhà thờ của giáo hội Công giáo Việt Nam. Đây được coi là nhà thờ có sức chứa lớn nhất ở Việt Nam, với khả năng chứa khoảng 3000 giáo dân và là nhà thờ có hình "Bánh chưng bánh giầy” duy nhất ở Việt Nam. Đây cũng là nhà thờ Công giáo có những công trình kiến trúc độc đáo, thu hút nhiều du khách tham quan tại Bảo LộcLâm Đồng.

Nhà thờ Bảo Lộc được xây dựng từ năm 1994, khánh thành năm 1999, theo đồ án thiết kế của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ (Khôi nguyên La Mã - Prix de Rome), với sự tham gia thực hiện đồ án của kiến trúc sư Nguyễn Hồng Sơn. Theo các nhà nghiên cứu lịch sử kiến trúc Việt Nam, thì nhà thờ Bảo Lộc là công trình cuối cùng của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ (tác giả của đồ án thiết kế dinh Độc Lập - tức dinh Thống Nhất

Ý nghĩa công trình

Qua đồ án, Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ "diễn tả nguyên tắc dùng hài hoà khối bằng kim số" một cách tinh vi và khoa học. Tuy mang dáng dấp kiến trúc Tây Phương, nhưng nhà thờ lại có những nét dân tộc độc đáo. Phía ngoài hình vuông tượng trưng cho đất. Phía trong hình tròn tượng trưng cho trời, được chống đỡ bởi 12 cây cột biểu hiệu cho 12 tông đồ của Giáo hội Công giáo.
Kiến trúc nhà thờ là sự phối hợp rất rõ giữa hai khối mỹ thuật VUÔNG (hình chiếc bánh chưng) và TRÒN (hình chiếc bánh giầy), tượng trưng cho "Trời tròn đất vuông”. Điều này gợi cho các tín hữu cũng như du khách đến nhà thờ nghĩ đến truyền thống văn hóa và lịch sử Việt Nam qua sự tích "Bánh chưng bánh giầy” thời các vua Hùng.
Phần trần nhà thờ là một mái vòm tròn đường kính 36m, được chia thành 12 cánh ôm lấy vòng trung tâm (đường kính 6m). Trần nhà thờ được làm bằng chất liệu thạch cao với những nét khắc tinh tế, đây cũng là điểm nhấn của công trình này. Trong nhà thờ có bộ tranh kính màu có diện tích 66m2 gồm 33 bức, đây cũng là bộ tranh kính màu lớn nhất trong các nhà thờ của Việt Nam


-Chùa Phứơc Huệ_Bảo Lộc :


-VIEW :   Một số hình ảnh về ngôi chùa Phướe Huệ - Bảo Lộc - Lâm Đồng.




-Chùa Phước Huệ Bảo Lộc_Photo Sphere - Mar 2015:








-VIDEO : Chùa Phước Huệ Thành Phố Bảo Lộc - Lâm Đồng_ngày 22 -02-2013.










 -Đức Mẹ Suối An Bình _Đèo Bảo Lộc

      Tượng đài Đức Mẹ Suối An Bình, Giáo xứ Bảo Lộc, Giáo phận Đà Lạt  

Tet Nham Thin- (mong 4 Tet)


Đèo B’lao (Bảo Lộc) và Núi Lu Bu

Miếu Ba Cô giữa lưng chừng đèo Bảo Lộc


Miếu Ba Cô_ Đèo B’lao (Bảo Lộc)


Miếu Ba Cô hiện nay.




Ở đây có xây cả 1 tượng Phật Bà Quan Âm nữa.

-VIEW : Sự thật về ba oan hồn trinh nữ (Miếu Ba Cô)




-VIDEO :Wedding In Bao Loc








-VIDEO : Áo dài Bảo Lộc 14-04-2013_Thu cảnh khu Trứơc Toà Hành Chánh Tỉnh Lâm Đồng Cũ.







No comments:

Post a Comment