Exploding firecracker : Đốt pháo mừng Xuân Giáp Ngọ _2014 _02_02 :
Ly rượu mừng - Phạm Đình Chương_Hợp Ca Trung tâm Asia :
-VIDEO :Diễn Hành Tết Ất Mùi_Little Saigon Tet Parade 2015, Orange County,California,USA_Chủ đề diễn hành Tết 2015 là “Người Việt Hải Ngoại 40 Năm Đoàn Kết và Phát Triển”với sự tham dự của gần 100 hội đoàn, các tổ chức của chính quyền địa phương, dân cử các cấp, trường học, học khu cũng như các cơ sở thương mại. nhân dịp Tết Nguyên Đán Ất Mùi trên đại lộ Bolsa ở Little Saigon vào sáng Thứ Bảy, 21 Tháng Hai, 2015.
Ông Đồ Già – Vũ Đình Liên
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Vào những dịp Tết đến, Xuân về, người Việt chúng ta không mấy ai không nghĩ tới những vần thơ giản dị mà thăm thẳm đi vào lòng người ấy. Nhưng ít người nhớ rằng tác giả của nó, thi sĩ Vũ Đình Liên, thành viên thuộc làn sóng thứ nhất của phong trào Thơ Mới, sẽ tròn bách niên vào năm nay.
Vũ Đình Liên sinh năm 1913 tại Hà Nội, nhưng quê gốc của ông tại tỉnh Hải Dương. Ông đỗ tú tài năm 1932 và sau đó làm nghề dạy học tại nhiều trường để kiếm sống. Tiếp đó, ông học thêm và đậu cử nhân Luật dưới thời Pháp, rồi làm công chức ở Hà Nội.
Sau năm 1945, Vũ Đình Liên tiếp tục theo con đường sư phạm: trong nhiều năm, ông là Chủ nhiệm khoa Pháp ngữ tại Đại Học Quốc Gia và là người thầy tận tụy của nhiều thế hệ sinh viên Hà Nội. Ngoài ra, ông còn tham gia dịch thuật, lý luận và phê bình văn học – ông cũng là thành viên sáng lập của Hội Nhà Văn Việt Nam.
Mặc dù gần như suốt đời làm nghề dạy học, nhưng văn thơ đã gắn bó với Vũ Đình Liên suốt cuộc đời. Cùng những thi sĩ đầu đàn của giai đoạn đầu Thơ Mới như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp, ông từng đăng đàn diễn thuyết năm 1935 tại Nam Định để cổ súy cho phong trào này.
Tuy nhiên, khác với đại đa số các nhà Thơ Mới đương thời, lấy tình ái và “cái tôi” cá nhân, nhiều khi cực đoan, làm mục đích chính cho cuộc đời và sự nghiệp thi phẩm của mình, Vũ Đình Liên nổi bật với lòng nhân hậu và tình người cao cả, mà một ví dụ tiêu biểu và nổi bật là thi phẩm “Ông Đồ Già”, được coi là một kiệt tác của thi ca Việt Nam.
Những nét ấy đã được thể hiện trước đó nhiều năm, qua bài thơ đầu tiên ông làm năm 13 hay14 tuổi, giờ có lẽ ít người còn nhớ tới. Đó là “Hồn Xưa”, cũng là một áng thi ca đượm tính hoài cổ nhưng ít phổ biến. Suốt đời, Vũ Đình Liên trân trọng thi phẩm này và giữ cho riêng ông, còn hơn cả bài “Ông Đồ Già”:
Ý thơ “cảnh cũ, người xưa” trong bài thơ “Hoài Cổ” đã được Vũ Đình Liên thăng hoa trong “Ông Đồ Già”, một kiệt tác trữ tình mà ông đã bỏ ra ròng rã một năm, từ Tết năm 1935 đến Tết năm 1936 mới hoàn thành và đăng lần đầu trên báo “Tinh Hoa”. Vũ Đình Liên nhận rằng với “Ông Đồ Già”, ông đã tìm được con đường riêng, là tình thương của mọi người, là truyền thống của dân tộc, cái mới trong cái cũ.
Sau năm 1945, Vũ Đình Liên tiếp tục theo con đường sư phạm: trong nhiều năm, ông là Chủ nhiệm khoa Pháp ngữ tại Đại Học Quốc Gia và là người thầy tận tụy của nhiều thế hệ sinh viên Hà Nội. Ngoài ra, ông còn tham gia dịch thuật, lý luận và phê bình văn học – ông cũng là thành viên sáng lập của Hội Nhà Văn Việt Nam.
Mặc dù gần như suốt đời làm nghề dạy học, nhưng văn thơ đã gắn bó với Vũ Đình Liên suốt cuộc đời. Cùng những thi sĩ đầu đàn của giai đoạn đầu Thơ Mới như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp, ông từng đăng đàn diễn thuyết năm 1935 tại Nam Định để cổ súy cho phong trào này.
Tuy nhiên, khác với đại đa số các nhà Thơ Mới đương thời, lấy tình ái và “cái tôi” cá nhân, nhiều khi cực đoan, làm mục đích chính cho cuộc đời và sự nghiệp thi phẩm của mình, Vũ Đình Liên nổi bật với lòng nhân hậu và tình người cao cả, mà một ví dụ tiêu biểu và nổi bật là thi phẩm “Ông Đồ Già”, được coi là một kiệt tác của thi ca Việt Nam.
Những nét ấy đã được thể hiện trước đó nhiều năm, qua bài thơ đầu tiên ông làm năm 13 hay14 tuổi, giờ có lẽ ít người còn nhớ tới. Đó là “Hồn Xưa”, cũng là một áng thi ca đượm tính hoài cổ nhưng ít phổ biến. Suốt đời, Vũ Đình Liên trân trọng thi phẩm này và giữ cho riêng ông, còn hơn cả bài “Ông Đồ Già”:
Lặng lẽ trên đường lá rụng mưa bay
Như khêu gợi nỗi niềm thương tiếc
Những cảnh và những người đã chết
Tự bao giờ mà nay biết tìm đâu.
Những cảnh xưa rực rỡ đến trăm màu
Mà êm ả, mà tưng bừng, mà bé nhỏ
Đẹp như bức tranh, hay như bài thơ cổ
Những ngày xưa yên lặng nhẹ nhàng.
Có những điều ước vọng mơ màng
Mà bây giờ chúng ta không còn nữa
Nhưng biết tìm đâu những cảnh xưa người cũ
Lặng lẽ bên đường lá rụng mưa bay.
Ý thơ “cảnh cũ, người xưa” trong bài thơ “Hoài Cổ” đã được Vũ Đình Liên thăng hoa trong “Ông Đồ Già”, một kiệt tác trữ tình mà ông đã bỏ ra ròng rã một năm, từ Tết năm 1935 đến Tết năm 1936 mới hoàn thành và đăng lần đầu trên báo “Tinh Hoa”. Vũ Đình Liên nhận rằng với “Ông Đồ Già”, ông đã tìm được con đường riêng, là tình thương của mọi người, là truyền thống của dân tộc, cái mới trong cái cũ.
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay.
Mẹ vợ của nhà thơ Vũ Đình Liên có một cửa hàng tạp hóa ở đó và chính vợ ông từng trực tiếp bán giấy cho ông đồ nghèo. Trong hồi tưởng, Vũ Đình Liên cũng hồn nhiên nói rằng nhiều lúc ông nghĩ, nếu ông không “tán tỉnh” và yêu cô hàng xén – về sau trở thành vợ ông – thì chắc gì ông đã để lại cho hậu thế thi phẩm “Ông Đồ Già” bất hủ!
Hình ảnh “ông đồ già” – được Vũ Đình Liên coi như “cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn” (lời ông) – được tác giả thuật lại dưới lời thơ giản dị nhưng chứa chất rất nhiều cảm xúc:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu.
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay.
Trong tác phẩm “Thi Nhân Việt Nam” ra đời cách đây hơn bảy mươi năm, nhà phê bình Hoài Thanh đã có những đánh giá rất tinh tế và chuẩn mực về “Ông Đồ Già”: ”Hai nguồn thi cảm chính của người (tức Vũ Đình Liên) là lòng thương người và tình hoài cổ. Người thương những kẻ thân tàn ma dại, người nhớ những cảnh cũ người xưa.
Có một lần hai nguồn cảm hứng ấy đã gặp nhau và đã để lại cho chúng ta một bài thơ kiệt tác (…) Ít khi có một bài thơ bình dị mà cảm động như vậy. Tôi tưởng như đọc lời sám hối của cả bọn thanh niên chúng ta đối với lớp người đương đi về cõi chết.”
Như Hoài Thanh nhận định, “theo đuổi nghề văn, mà làm được một bài thơ như thế cũng đủ – nghĩa là đủ để lưu danh, đủ với người đời”, đọc lại bài thơ, dễ cảm tấm lòng của tác giả, và thấu nỗi hoài niệm man mác về một thời vang bóng. Dù không phải mang đề tài tình ái, bài thơ còn tính lãng mạn sâu xa hơn cả rất nhiều vần thơ vinh danh ngợi ca ái tình.
Trong thi phẩm, Vũ Đình Liên đã cất lời than khóc một thời lụi tàn, cho dù biết dường như ông vẫn biết đó là một tiến trình, một định mệnh không thể cứu vãn, đảo ngược. Nhưng chính bản thân ông, cũng ít nhiều đại diện cho một thế hệ, đã và đang giã từ chúng ta từng giờ, từng phút. Một nỗi niềm, từng ám ảnh, day dứt.
Có một lần hai nguồn cảm hứng ấy đã gặp nhau và đã để lại cho chúng ta một bài thơ kiệt tác (…) Ít khi có một bài thơ bình dị mà cảm động như vậy. Tôi tưởng như đọc lời sám hối của cả bọn thanh niên chúng ta đối với lớp người đương đi về cõi chết.”
Như Hoài Thanh nhận định, “theo đuổi nghề văn, mà làm được một bài thơ như thế cũng đủ – nghĩa là đủ để lưu danh, đủ với người đời”, đọc lại bài thơ, dễ cảm tấm lòng của tác giả, và thấu nỗi hoài niệm man mác về một thời vang bóng. Dù không phải mang đề tài tình ái, bài thơ còn tính lãng mạn sâu xa hơn cả rất nhiều vần thơ vinh danh ngợi ca ái tình.
Trong thi phẩm, Vũ Đình Liên đã cất lời than khóc một thời lụi tàn, cho dù biết dường như ông vẫn biết đó là một tiến trình, một định mệnh không thể cứu vãn, đảo ngược. Nhưng chính bản thân ông, cũng ít nhiều đại diện cho một thế hệ, đã và đang giã từ chúng ta từng giờ, từng phút. Một nỗi niềm, từng ám ảnh, day dứt.
Dậy đi thôi con thuyền nằm dưới bến,
Vì đêm nay ta lại căng buồm đi.
Mái chèo Mơ để bâng khuâng trôi đến
Một phương trời mây lọc ánh trăng khuya.
Gió không thổi, nước sông trôi giá lạnh,
Thuyền đi trong bóng tối lũy thành xưa.
Trên chòi cao, tự ngàn năm sực tỉnh
Trong trăng khuya bỗng vắng tiếng loa mơ.
Tự ngàn năm cả hồn xưa sực tỉnh,
Tiếng loa vang giây lát động trăng khuya,
Nhưng giây lát lại rơi im, hiu quạnh,
Cả hồn xưa yên lạng trong trăng khuya.
Trôi đi thuyền! Cứ trôi đi xa nữa!
Vỗ trăng khuya bơi mãi! Cánh chèo Mơ!
Lòng ta là những hàng thành quách cũ,
Tự ngàn năm bỗng vắng tiến loa xưa.
Trong đời sáng tác không nhiều, nổi tiếng trong chừng mười năm trước mốc thời gian 1945 rồi dừng lại trên tư cách một nhà thơ, Vũ Đình Liên đã có những lời tự sự khiêm nhường và rất cảm động ngay từ khi còn rất trẻ: “Tôi bao giờ cũng có cái cảm tưởng là không đạt được ý thơ của mình. Cũng vì không tin thơ tôi có một chút giá trị nên đã lâu tôi không làm thơ nữa”.
Vũ Đình Liên, một hồn thơ đất Việt đã sống lặng lẽ giữa dòng đời xuôi ngược của một đô thị lớn, trong những năm tháng xô bồ của xã hội Việt Nam thời chiến và hậu chiến suốt nửa thế kỷ sau đó. Gần hai chục năm sau ngày ông ra đi, nhớ về ông, những kẻ hậu sinh không khỏi có những lúc sững sờ tự hỏi mình:
NGÀN NĂM BIA RƯỢU VẪN CÒN SAY SƯA . DZÔ DZÔ ! ! !
Bình Ðịnh trước đây là đất vua, nơi có thành Ðồ Bàn từng là đế kinh của vương quốc Chiêm Thành, kéo dài từ thế kỷ thứ X-XV (sau tây lich) mới chấm dứt. Thành này lại được Thái Ðức Hoàng đế Nguyễn Nhạc vào năm 1776 cho mở rộng để xây hoàng cung. Ðặc biệt ở ngoại ô có một chợ rượu rất vui vẽ tấp nập, nhờ nằm trên một địa thế thuận lợi cả đường bộ lẫn đường sông, nên mọi người có thể tới đây bằng ngựa xe hay ghe thuyền.Theo các tài liệu còn lưu trữ cho biết chợ rượu thời đó thuộc tổng Háo Ðức Thượng, nay là xã Nhơn An, huyện An Nhơn, được xem như là chốn phồn hoa đô hội vào thời đó.Ngoài kinh thành Ðồ Bàn, đây cũng là nơi tụ tập ăn chơi hưởng thụ của giới quan quyền và thượng lưu sang giàu khắp vùng. Vì vậy đã tập trung gần như tất cả các giai nhân tài tử tứ phương cùng với nhiều loại danh tửu trong thiên ha, từ rượu nếp hương, nếp lưu niên, cơm nếp Phú Ða, Háo Lễ tới rượu gạo tăm Cảnh Hàng, An Tây, Chánh Mẫn, rượu nho tươi Kim Châu và đệ nhất đế ‘ Bàu Ðá ‘ tới nay tiếng tăm vẫn còn nguyên vẹn. Sỡ dĩ đế Bàu Ðá ngon và nổi tiếng khắp Bình Ðịnh, vì xóm Bàu Ðá xưa có một cái bàu nước ngọt trong và xanh vắt được đem về nấu rượu bằng nồi đất và ống dẫn được làm bằng tre. Rượu chẳng những dùng để uống mà còn được ngâm với thuốc bắc để các nam nữ vỏ sĩ thoa bóp hay uống trong lúc luyện võ.Ai đã từng uống được thứ rượu ngon này mới cảm nhận hết cái mùi vị vừa thơm vừa nhẹ, nên chỉ vài chén đã thấy tâm hồn sảng khoái, nồng nàn thú vị, nên dẫu có say cũng không lâu hay bị nhức đầu.Ngoài rượu của miền xuôi, tại đây còn bày bán các thứ rượu cần của người Chàm và Bahnar ở vùng Tây Sơn thượng đạo (Bình Khê, An Túc ngày nay), được chở tới với trầu nguồn, măng le .. bằng các thuyền buôn xuôi ngược trên sông Côn. Rượu bày bán khắp các hàng quán có dâng đèn kết hoa rực rở và được chứa trong các chai lọ, bình ché độc đáo. Tất cả đều là loại đồ cổ quý giá lâu đời, làm bằng sứ men xanh hay đồng, thau, bạc, thủy tinh, đất nung cho tới da lươn, vỏ bầu nậm, bong bóng lợn.. Bên cạnh còn có những cốc, chén, ly hay tô lớn đủ màu đủ kiểu có chân hay không, được đặt trên những đài, kỷ và khay làm bằng gổ được chạm trổ, để các người hầu rượu hay đào nương kỷ nữ dâng rượu ngang mày cho khách.Thường chợ rượu họp năm ngày một tuần nhưng đông vui nhất vẫn là phiên cuối tháng với khách kinh thành đổ về mua vui trong các quán rượu do người đẹp làm chủ. Nhưng rồi ‘ thành cũ lâu đài bóng tịch dương ‘, tất cả cũng tan biến theo thời cuộc và nổi thăng trầm khi Nguyễn Nhạc chết năm 1793 mang theo sự sụp đổ của Hoàng đế thànhQuê người những ngày xa xứ, ngồi trong quán cốc bên đường lặng lẽ nhìn cuộc đổi thay nhanh chóng của thời gian, để rồi ngậm ngùi trước cảnh đổi đời phế hưng với người xưa cảnh cũ đâu còn.Thuở còn làm lính trận, những ngày sắp xuân có dịp dừng quân trên các thôn làng sông nước Hậu Giang, là dịp thưởng thức mùi hương lúa mới, các món ngon vật lạ của ruộng đồng, trong đó có đờn ca và nhắm nháp một thứ mỹ tữu : “ Rượu đế nổi tiếng Gò Ðen”, những thứ ở Phan Thiết quê tôi không có. Rượu đế ở đây trong veo và cháy nồng như một ngọn lửa bốc cao, hòa điệu cùng với lời ca tay đờn ngẩu hứng lồng lộng khi hơi men chếch choáng, cứ thế cổ bàn rộn theo những bản vọng cổ, xàng xê, nam xuân, văn thiên tường , phượng cầu, bản lớn bản nhỏ xen lẫn những bản tân cổ giao duyên, mượn ý nhạc của Trịnh Lâm Ngân như Xuân này con không về, thư xuân trên rừng cao, mùa xuân của mẹ.. khiến cho lính trận cũng phải khóc ngất theo những cung bậc nĩ non hờn oán của tiếng lục huyền cầm, vì đêm xuân xa nhà, nhớ quê, nhớ mẹ, nhớ em.Nay thì vèo xa tất cả, ở một chốn rầt là buồn, trong giờ khắc giao thừa, giữa lúc nhà nhà cài then khóa cổng để xum vầy năm mới, thì người lữ khách tị nạn cũng “ rũ áo phong sương “ lặng nhìn thiên hạ rồi hướng về cố quốc, để thấy mình lạc lỏng trơ trọi. Rốt cục cũng chỉ mình ta nâng chén để mừng ta thêm một tết buồn. Hởi ôi :“ Trăm năm sông núi cũng mòn,nghìn năm bia rượu, vẫn còn như xưa.”
1-ÐI TÌM DÁNG RƯỢU TRONG DÒNG LỊCH SỬ NHÂN LOẠI :Mổi khi xuân về, người ta thường làm thơ viết đối với những lời chúc tụng tốt đẹp và nồng nàn nhất để dành cho nhau trước những ngày đầu năm mới. Ngoài ra chuyện ăn uống ngày tết cũng là một biến chuyển quan trọng , so với cuộc sống thường nhật vì nhà nhà đều ăn nhiều,ăn ngon như là một ước nguyện mong mõi được sung túc quanh năm. Cái vui của ngày tết, là trong lúc phụ nữ bận rộn lo chuyện ăn mặc, gạo cơm thì các chàng hầu như chỉ biết tới bia rượu để cùng bạn bè vui vầy say xỉn.Ngày xưa rượu tượng trưng cho quyền lực, do đó chỉ có vua chúa mới tha hồ thưởng thức các loại mỹ tửu và theo sử liệu, thì đây là nguyên cớ chính khiến cho các hoàng đế Trung Hoa cũng như các nước trên thế giới bị giảm thọ. Người quân tử dùng rượu trong việc lễ “ vô tửu bất thành lễ”, cho nên rượu trước hết là một phạm trù văn hóa trong sinh hoạt của mọi dân tộc,nhất là VN. Ngày tết mà thiếu rượu là thiếu đi một phần đáng kể trong ngẩu hứng của con người, cho nên ngay cả các bà vợ khó tánh , ghét nhậu.. cũng ráng sửa lại cái dáng “ mặt lớn, mặt nhỏ” chỉ làm xui cho cả năm, để sẳn đầy ắp rượu ngon mồi quý, cho chồng và bạn vui xuân.Tới nay các nhà khoa học vẫn chưa biết chắc thời điểm xuất hiện đầu tiên của rượu. Căn cứ vào sử liệu Trung Hoa, thì ngay thời huyền sử Tam Hoàng, Ngủ Ðế đã xuất hiện ruợu, trong đó có nói tới chuyện Ðổ Khương tình cờ đem nếp ngâm làm mạ để gieo trồng nhưng sơ ý khiến nếp hỏng nhưng tiếc của không bỏ lại lấy số nếp hư đem nấu và phát hiện được một thứ nước màu hồng sậm, nồng mà ngon ngọt, về sau gọi là rượu.Tuy nhiên đó cũng là huyền thoại, còn thực chất thì theo Chiến Quốc Sách ghi rõ, Nghi Ðịch là người đầu tiên sản xuất rượu, đồng thời với các vật dụng bằng sành như chum vại ly chén, dùng để đựng và uống rượu. Tại lưu vực sông Nil thuộc Ai Cập, qua các công trình khảo cổ cho thấy cách đây hơn 6000 năm, người xưa đã biết cách làm bia rượu.Tại Cố cung Bắc Kinh, có một viện bảo tàng, tập hợp hầu hết những tác phẩm văn hóa nghệ thuật trân quý của nhiều triều đại, trong đó có các thứ ly cốc chén dùng để uống rượu, làm bằng vàng, bạc, đồng, ngọc, thủy tinh, sừng tê giác, phần lớn là của các bậc đế vương, quan quyền, thượng lưu trí thức, có cái thực dụng, có cái làm chỉ để ngắm chơi.Nhưng trong tất cả, chỉ có chiếc ly ‘ Kim âu vĩnh cố ‘ làm bằng vàng khảm ngọc, chạm khắc hoa mỹ, được coi là độc đáo nhất về phương diện nghệ thuật và giá trị kim tiền. Theo sử liệu, chiếc ly này do Phủ nội vụ thực hiện theo lệnh vua Càn Long (1736-1796). Ly làm toàn bằng vàng y, cao 12,5 cm, đường kính miệng ly là 8cm chung quanh khảm toàn là trân châu, tay cầm là hai con rồng đứng, trên đầu đính ngọc quý, thân ly chạm hoa với 11 trân châu, 9 viên bảo thạch đỏ, 12 đá quý màu lam, vành miệng ly khắc hoa văn với chữ triện “ Kim âu vĩnh cố’, mặt sau ghi chữ “ Càn Long niên chế”. Về ý nghĩa, chữ kim âu chỉ lãnh thổ toàn vẹn, còn ly kim âu thì đựng ngự tửu, song song với bút vạn niên thanh của nhà vua. Tất cả đều là dụng ý thầm kín của các hoàng đế , mong ước nhà Ðại Thanh nhất thống Trung Hoa muôn nam. Ý trên còn để lộ ra một cách rõ ràng, khi thân ly được thiết kế trên hình ba con voi đứng và mỗi vòi voi cuốn lên làm thành một chân ly.Tóm lại toàn bộ chiếc ly toát lên cái tính chất quý phái, sang trọng và vững chải theo thế chân vac, nên được nhà Ðại Thanh coi là vật trấn quốc chi bảo. Theo sử liệu thì hằng năm vào ngày Nguyên Ðán, giờ tý tức là khoảng 11 giờ ố1 giờ khuya , vua cử hành nghi thức khai bút năm mới, tại Ðông viên các trong Dưỡng tâm điện. Trên án thư đã bày ly “ kim âu”, đuốc ngọc và bút vạn niên thanh. Vào thời điểm thiêng thiêng đó, ngự thị rót đồ tô tửu, thứ rượu ngừa bệnh dịch ôn, vào ly kim âu, rồi đốt nến và vua khai bút bằng mực đỏ hai chữ Cát Tường, cùng các câu Thiên hạ thái bình, Phúc Thọ trường xuân.. ban cho hoàng gia, quần thân và thần dân.Tại cao nguyên Trung Phần VN, trước năm 1975 ai có dịp sống tại đây, chắc cũng đôi lần thường thức món rượu Ché (rượu cần) của đồng bào Thượng dùng đãi bạn bè, khách quý và khi trong làng có cuộc vui. Theo từ điển Francaire-Jarai-Vietnamien của học giả PE.Lafont do E.F.E.O xuất bản năm 1968 tại Paris đã có kê khai 30 chiếc ché cực quý đựng rượu của người Thượng cao nguyên. Theo tác giả, đây không phải là loại ché tầm thường bày bán tại chợ, mà là những tác phẩm nghệ thuật, chẳng những có giá trị vật chất mà còn mang đầy tính huyền thoại. Theo đó ta thấy ché RAN DING DÔNG của Will ở làng Kon Robang,KonTun, theo huyền thoại do công chúa Bok Glai làm tặng hai anh hùng đã có công chống giặc ngoại xâm. Ché có giá trị bằng 10 con trâu, tuổi thọ 100 năm. cao 0,60m đựng rượu quý. CHÉ HOTOK H’DANG của Kliu làng PleiBrell Pleiku, trị giá 20 con trâu, do người Sedang làm trên 1 thế kỷ.CHÉ HOTÔK RANGPIA vừa giữ nhà,khi có người lạ tới thì rượu báo động, ngoài ra trong ché tự chế biến đặc biệt chất rượu khi uống dù chỉ đựng một chất rượu. Tóm lại mỗi chiếc ché quý được đánh giá theo lý lịch, tên tuổi, các nhà giàu thời đó tranh nhau lấy tài sản để đổi cho được làm của gia bảo. Ngày nay qua cuộc đổi đời, ché chỉ còn coi như món đồ tầm thường, dù thực sự giá trị của nó có thể bằng cả thớt voi hay chiếc xe đò.Xưa nay rượu với người như hình với bóng vì ngoài chức năng tiêu khiển, giải phá thành sầu, rượu còn được dùng trong công nghiệp, y học, các nghi thức tôn giáo, giao tế xã hội.. sau hết rượu là nguồn bất tận ,gây cảm hứng cho văn nghệ sỹ, giúp họ sáng tác những tác phẩm bất hủ để đời, có thể kể như Lý Bạch, Ðổ Phủ, Bạch Cư Dị, Cao bá Quát, Nguyễn công Trứ, Nguyễn Khuyến.. Theo Chung Dung,Tôn văn Kỳ, Chu Quảng Ba.. trong sách những toa thuốc cổ truyền danh tiếng của Trung Hoa, rượu chữa được bách bệnh , nên chữ Y (thuóc) trong Hán tự có chữ Tửu (rượu) đứng trước. Rượu giúp hành huyết, khai uất. Chính Hải Thượng Lãn Ông, đại danh y của VN cũng viết :” rượu có chất ôn dùng để tải thuốc, uống có điều độ sẽ thông khí huyết. Uống rượu là một nghệ thuật sống mà không phải ai cũng đạt được, vì thế người Tàu đã phấn phối rành rẽ năm cách uống rượu : Ðộc ẩm, đối ẩm, cộng ẩm, quần ẩm và loạn ẩm.Sẳn tiền là sẳn rượu nhưng tìm được tri kỷ để đối ẩm không phải là chuyện dễ dàng.“..Tửu vô kiềm tỏa năng lưu khách “ nên Nguyễn Khuyến đã viết :” Rượu ngon không có bạn hiền, không mua không phải không tiền không mua”, còn Lý Bạch thì :” Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch, duy hửu ẩm giả lưu kỳ danh” nhưng nồng nàn và đầy đủ ý nghĩa hơn hết vẫn là lời phán của văn hào Anh Fergus Hamilton Allen :” Whisky là mặt trời chiếu sáng tình bạn, là mặt trăng soi sáng tình yêu ..”Cổ nhân cứ theo rượu mà trêu chọc người đời khắp nơi trên sách vở, làm cho thế nhân cứ ao ước được một lần, để nhắp thử loại rượu do Ðổ Khang chế , đã làm cho Lưu Linh là người nổi tiếng uống rượu không bao giờ biết say vào thời đó, phải nằm yên dưới lòng đất để ngủ một giấc ‘ ba năm ‘ mới tỉnh lại.‘ Mãnh hổ nhất bôi sơn trung tuýGiao long lưỡng trán hải đồ miênKhông say ba năm chẳng lấy tiền ‘2-CÀC LOẠI RƯỢU :Rượu có nhiều loại, nhiều hạng, thứ nào uống nhiều cũng say dù đó ngự tửu của vua chúa, hay Mai quế lộ, ngủ gia bì hoặc đế, nếp, rượu cần.. Nói chung rượu phát từ hai nhóm chính là RƯỢU LÊN MEN cất từ nước ép của hoa quả như rượu vang, rượu cần.. và RƯỢU CHƯNG CẤT (spirits) làm từ đường mía, tinh bột, ngủ cốc, củ cải.. ngoài ra còn có thứ rượu mùi đặc biệt, được pha chế từ thứ rượu cồn Etalic với đường, acid Citricque, và các hợp chất màu.+ Rượu Ta :Việt Nam có nhiều vùng cất rượu ngon nổi tiếng như là làng Vân (Bắc Ninh), Nguyên Xá (Thái Bình), Trương Xá (Hưng Yên), Nga Mi (Hà Tây), Quảng Xá (Thanh Hóa), Bắc Hà (Lào Kai), Kẻ Diên (Quảng Trị), Bàu Ðá (Bình Ðịnh), Phụng Hiệp (Cần Thơ), Gò Ðen, Long Thành, Củ Chi.. Các dân tộc thiểu số vùng núi có rượu cần độc đáo.Tất cả các loại trên đều được chưng cất theo phương pháp gia truyền , chứ không theo đúng các qui trình khoa học Âu Mỹ. Nhiều loại rượu đặc chế bằng gạo, dừa, nếp, đậu nành, đào, táo, lê, Rượu đế còn gọi là nước mắt quê hương, nấu bằng nếp , phát xuất từ thời Pháp thuộc, có nồng độ cao. Rượu quế chỉ dùng làm thuốc trị tì vị vì quế có nồng độ rất gắt và bán rất đắt giá. Rượu dừa chế bằng cách cấy men vào gốc dừa khi buồng dừa mới trổ và phải mất từ 6-8 tháng mới thành rượu dừa, sủi bọt nhưng ngon hơn bia. Theo khách sành điệu trong làng ve chén hiện nay, thì VN hiện có bốn loại rượu ngon nổi tiếng là rượu làng Văn xứ Bắc, Kim Long ở Quảng Trị, Bàu Ðá Bình Ðịnh và đế Gò Ðen Nam Phần.Trong Ðại Nam Nhất Thống Chí viết rượu Kim Long ở Hải Lăng, Quảng Trị ngon hơn hết. Thời Pháp thuộc, thực dân chiếm hết các lò nấu rượu trong tỉnh và lập công ty rượu Xi-Ca. Khi rượu ra lò đóng vào chai, thì được đem ngâm trong hồ nước lạnh một thời gian ấn định, rồi dùng thuyền nhỏ chở rượu theo sông Vĩnh Ðịnh tới Huế, lên tàu lớn chở về Pháp và từ đó xuất cảng khắp thế giới.Rượu rắn Phụng Hiệp được chế tạo tại thị trấn Phụng Hiệp còn gọi là Ngã Bảy, về phía nam tỉnh Phong Dinh , cách thành phố Cần Thơ chừng 30 km, từ xưa đã nổi tiếng về các đặc sản đồng ruộng như cá, tôm, ốc, ếch, cua, bìm bịp và nhiều nhất là rắn bày bán dọc theo quốc lộ 4 và các ngôi chợ nổi trên sông rạch. Rượu rắn Phụng Hiệp là thổ sản địa phương, phát triển từ năm 1960 tới nay vẫn còn hưng vượng . Hiện có 5 lò sản xuất nhưng qui mô hơn hết vẫn là lò Năm Rô. Rắn dùng để làm rượu, phải là rắn sống, đem về mổ bụng từ ức tới hạ môn, bỏ hết chỉ giữ lại mở và mật vì đây là hai vị thuốc. Làm theo ba cách như ngâm rắn tươi, rắn khô và bột rắn. Hiện Phụng Hiệp sản xuất ba loại rượu rắn là Tam xà ( hổ mang, hổ lửa hay rắn ráo,m ai gầm hay cạp nong ), Ngũ xà ( gồm ba loại trên thêm hổhành và hổ hèo), Thập Xà ( gồm 5 loại rắn trên cộng thêm rắn lục, bông, ri voi, ri cá và bông súng). Rượu rắn có công dụng trị các chứng tê liệt, đau nhức, phong thấp, bồi bổ sức khoẻ, ăn uống chậm tiêu.Vùng thượng du Bắc Việt có rượu cần tây bắc của người Thái, Mèo như rượu Lầu Xá tại Sơn La chế bằng nếp, trấu và men, uống say như bia, lại có mùi thơm nếp, làm mát ruột và tiêu hoá nhanh. Tại Lai Châu có rượu Lầu Sơ, loại rượu trắng nấu bằng khoai mì, theo phương pháp cất khô như rượu bắp của người Mèo ở Bắc Hà (Lào Kai). Ngoài ra còn có rượu Lầu Vang của người Nùng ở Mường Tế nấu bằng nếp và dùng chén để uống chứ không hút bằng cần.Người Mèo Hoa ở Bản Phốợ trồng nhiều bắp (300 ha) hơn lúa (chỉ có 82 ha) vì bắp dùng để nấu rượu ngô vừa để uống và mang ra chợ Bắc Hà, cách bản chừng 3 km, bán cho mọi người kinh cũng như thượng. Nhờ vậy mà dân trong bản, nhiều gia đình đã sắm được xe ngựa chở rượu ra chợ bán. Rượu ngô của người Mèo chế đặc biệt hơn, khác với vị đằm của rượu San Lùng người Mán, vị ngọt của rượu Cần Thái, vì nó nồng nên khó uống. Cách làm rượu cũng dể, cứ đem bắp về (loại bắp vàng) luộc nhưng đừng để lửa to quá làm rượu không ngon. Còn men thì làm từ hạt Hồng Mị (giống như hạt kê), đem trộn với bắp đã luộc, bỏ vào thùng gang ủ một tuần. Thời gian này phải đốt lửa để hơi rươu bốc hơi qua một cái chọt gổ, chảy ra ngoài. Cứ 10 ký bắp làm được 3 lít rươu, để nguyên uống nếu pha thêm nước lạnh thì rượu sẽ không mùi vị nữa. Ngoài ra rượu ngon cũng còn tùy thuốc vào nguồn nước để nấu. Nên người kinh tại vùng xuôi dù đã học đúng cách nấu rượu của người Mèo Hoa, rượu cũng không ngon vì tại đây đâu có nước suối Háng Dế để mà chưng cất rượu ?Xứ Thái ở vùng tây bắc giáp Lào (Lai Châu) có loại rượu đặc biệt làm từ các loại côn trùng như sâu chít, nhộng dùng làm rượu bổ, được bày bán tại chợ Ðiện Biên. Chít là con sâu non sống trong ngọn cây chít, một loại cây giống như lau sậy ở miền Nam nhưng sâu chít chỉ có ở vùng tây bắc mà thôi. Vào mùa xuân, đồng bào bắt đem về làm rượu.Tại cao nguyên Trung phần, rượu cần được nấu bằng lúa, nếp, bo bo, khoai mì, bắp, đậu. Với các người Teu, Vân Kiều , Pacoh tại Quảng Trị, Thừa Thiên có các loại rượu nứa, mây, đoắc.. chế từ nước trong thân của các loại cây trên cộng với men, uống có vị chua cũng say nhưng phẩm chất kém xa các loại nấu bằng ngủ cốc. Riêng người Rhade nấu rượu bằng cơm, trộn với thứ men đặc biệt gọi là Kuach Eya. Người Lào có rượu nếp còn rượu Miên thì lạt hơn rượu Lào nhưng rượu nào cũng say.+ RƯỢU TÀU : Từ thời thượng cổ, người Trung Hoa đã có nhiều loại rượu nổi tiếng như Thiệu Hưng Trạng Nguyên Hồng, Thiệu Hưng Nữ Nhi Hồng, Trúc Diệp Thanh, Mai Quế Lộ, Bách Thảo Mỹ Tửu, Hầu Nhi Tửu, Bồ Ðào Tửu, Cao Lương, Ngũ Tiên, Phục Ðức Gia Tửu, Mao Ðài, Thấu Bình Hương .. Theo sử liệu, vào thời nhà Tống (960-1297), nền công nghiệp chưng cất rượu của người Tàu đã đạt tới mức tinh vi. Huyện Dương Cốc thuộc tỉnh Sơn Ðông, một địa danh gắn liền với truyền thuyết Võ Tòng đã hổ trong Thủy Hử truyện của Thị Nại Am tiên sinh, thuở đó đã có tới 77 nhà sản xuát rượu, trong số này có Thấu Bình Hương của Trấn Trương Thu là nổi tiếng nhất. Ðây chính là loại rượu “ Tam Uyển Bất Quá Cương “ , mà Võ Tòng đã uống tới 18 chén mới say, rồi bất chấp lời khuyên can của mọi người, vượt đồi Cảnh Dương đả hổ được truyền tụng muôn đời. Thấu Bình Hương từng được chọn làm cống tửu và chính vua Tống Thần Tôn đã viết lời khen tặng :” Quí Nhân Giai Tửu “.Ðại Ðế Khang Hy đời Thanh, khi tuần du phương nam cũng không tiếc lời ca tụng khi nhắm nháp. Năm 1983, trong Ðại Hội toàn quốc Võ Tòng đã hổ lần thứ III tại Bắc Kinh, rượu Thấu Bình Hương đã chính thức chinh phục cử tọa và được mệnh danh là Anh Hùng Tửu. Ngày nay , công ty rượu Cảnh Dương Cương ở huyện Dương Cốc, cách Sư Tử tửu lầu không xa , sản xuất Thấu Bình Dương để xuất cảng với biệt danh Cảnh Dương Trấn Nhưởng+ Rượu Tây : Champagne là vua trong các loại vang sủi bọt, có nồng độ từ 10-12 , dịu nhưng cũng đủ say, được mọi người dùng nhiều nhất trong các dịp lễ tết, tiệc tùng kỹ niệm. Chữ Champagne còn mang ý nghĩa vui vẽ, hạnh phúc, phấn khởi. Ðược chế tạo bằng loại nho đặc biệt (Chardonnay 24% và Pinot Noir 76%) tại các vùng trồng nho nổi tiếng của nước Pháp thuộc miền Champagne như bình nguyên Montagne de Reims Epernay nằm về phía đông bắc Ba Lê. Riêng các thùng gổ đựng rượu nho có một hệ thống nắp đặc biệt , mở ra đóng vào phù hợp với thời gian đủ cho khí CO2 thoát ra mà không cho các loại khí khác xâm nhập .Khi nho lên men, người ta trộn thêm đường , sau đó đóng nút chai, đặt ngược đầu và ủ vào hầm kín , từ 5 đến 6 năm mới đem ra thị trường tiêu thụ. Riêng các kỷ thuật xoay chai và tách nấm men ở cổ chai đều là bí thuật không phổ biến. Tóm lại mỗi chai Champagne đều có một lượng nhỏ đường và acid , còn lại là chất Phenol nhưng yếu tố quyết định ngon dở vẫn do mùi vị bí truyền , thuộc nhiều yếu tố như giống nho, men, thời gian lên men, kỹ thuật biến chế.Hiện thị trường có ba loại Champagne : Loại không ngọt ( bruit), hơi ng5t ( demi-sec) và ngọt (sec). Ngày nay các h ảng sản xuất Champagne bắt chước các công ty Brandy vẽ sao làm ký hiệu trên các nhản chai như 1 sao là rượu 3 năm, 2 sao là 4 năm, và 3 sao là 5 năm. Còn VO là rượu trên 12 năm, VSO từ 12-20 năm và VOVS từ 20-30 năm và XO trên 30 năm. Ðược biết người chế ra rượu Champagne đầu tiên là một giáo sĩ người Pháp tên Pierre Pérignon. Hiện rượu Champagne đã vượt biên giới Pháp , lan tràn khắp nơi trên thế giới và được sản xuất tại các nước trồng nho.- Bia : là loại thức uống có Gaz , nồng độ từ 3-10, dược chế bằng các loại ngủ cốc mà chủ yếu là luá đại mạch, ngoài ra còn độn thêm bắp, gạo, cao lương, tiểu mạch hoặc vài loại trái cây. Bia lon hay bia chai là bia đã lọc, thanh trùng, còn loại không lọc hay thanh trùng thì gọi là bia tượi, bia bock, bia Draft. Bia chế tạo tại VN sau 1975 không thanh trùng, lại còn thêm vào khí CO2 cho sủi bọt.
Người Ðức gọi Beer là Bier, một đại gia không bao giờ vắng mặt tại nước này. Theo truyền thuyết bia xuất phát đầu tiên tại vùng Lưỡng Hà và là món giải sầu cho những người nô lệ khi họ bị bắt tới Ai Cập vác đá xây kim tự tháp cho các Pharaoh. Còn Ðức lại là quốc gia sản xuất nhiều bia nhất hiện nay với 1270 lò sản xuất 5000 loại và mỗi người Ðúc hằng năm tiêu thụ tới 114 lít. Bia Ðức thường có độ alcool trung bình là 5% nhưng cũng có loại không chứa, gồm ba thứ chính là bia vàng, nâu và đen.Hằng năm tại Munich (Ðức) có lễ hội bia Oktoberfest , có xuất xứ từ một lễ cưới của Hoàng gia Phổ năm 1810, đã thu hút hàng triệu du khách quốc tế. Hiện Ðức chọn ngày 23 tháng 4 Dương Lịch mỗi năm là ‘ Ngày Bia ‘ với những luật lệ được ban hành từ năm 1516, qui định việc sản xuất bia bằng nước thiên nhiên, hoa bia và mạch nha.Pháp có bia 33 và con cọp (tiger) nổi tiếng lâu năm tại VN nhưng không phải là nước uống nhiều bia mà lại nổi tiếng về rượu vang và cognac. Nhưng Pháp lại có một trung tâm bia (Culture Bière) trên đại lộ Champs Élysées .Ðặc biệt ở đây chỉ có bia, từ loại nổi tiếng đắt tiền được các dòng tu sĩ Thên Chúa Giáo sản xuất, tới loại bia Heineken dựng trong các chai với nhiều kiểu kỳ lạ làm bằng nhôm. Trung tâm này không phải là một lò sản xuất bia của Pháp, mà là nơi trưng bày tất cả những gì có liên quan tới việc nấu bia như hoa bia, hạt lúa mạch, các loại men.. Ngoài ra còn có các kiểu ly dùng để uống từng loại bia cho tới những dụng cụ mở chai được thiết kế rất cầu kỳ.- Các Loại Rượu Mạnh : chiếm phần lớn thị trường rượu , bao gồm WHISKY được nhiều quốc gia sản xuất nhưng nổi tiếng nhất của Mỹ, Tô Cách Lan, Anh, Ái Nhĩ Lan, Gia Nã Ðại. VODKA chế biến tại Nga, Ba Lan, Ðông Âu. RUM tại Tây Ban Nha, Ðức, Ý. COGNAC nổi tiếng nhất của Pháp. Rượu mận Slivovitz phổ biến ở Hung Gia Lợi, Lỗ và Nam Tư. Ngoài ra còn có Brandy Anh Ðào gọi là rượu Kirsch ở Pháp, Ðức, Thụy Sĩ. Người Mễ Tây Cơ có loại rượu Tequila và Pulque. Ở Hawaii có rượu Okelahao hay Oke, còn người Nhật có rượu Saké. Ðược coi là rượu mạnh (spirit), nồng độ tối thiểu phải đạt trên 30 độ.Whisky cất từ lúa đại mạch đen và bắp. Trước kia các loại Whisky đều nấu bằng mầm lúa đại mạch nên gọi là Whisky đại mạch. Sau năm 1830 người ta trộn thêm bắp nên Whisky có mùi dịu hơn và sự cấm kỵ trong lúc chế biến là không được dùng khoai tây, trái cây. Hiện có bốn loại Whisky nổi tiếng trên thế giới : Whisky Scotch (Tô Cách Lan), Irish (Ái nhĩ Lan), HoaKỳ và Gia Nã Ðại. Trong các loại, Whisky Tô cách Lan nổi tiếng hơn 1100 năm , với hai nhản hiệu Ông Già Chống Gậy ( Johnnie Walker ) nhãn đỏ ũ trên 3 năm, còn nhãn đen trên 12 năm trước khi xuất xưởng. Ngoài ra còn có Chivas Regal nổi tiếng và mỗi năm bán trên 42 triệu chai. Whisky Aí Nhĩ Lan dùng nguyên liệu tương tự rượu Scotch nhưng chưng cất bằng nồi có cột (patien still), còn rượu Scotch thì nấu trong nồi cổ cong hay nồi củ hành. Whisky Mỹ nấu bằng bắp (51%),nên nồng độ không quá 80 độ, còn gọi là whisky Bourbon, nổi tiếng trong loại này có Four Roses và Danniel ‘s Jack Bourbon. Rượu whisky Gia Nã Ðại có màu sậm vì chế bằng lúa mạch đen và bắp mà nhãn hiệu Crown Royal được ưa chuộng nhất, bên cạnh còn có Seagram mang ký hiệu VO cũng được nổi tiếng.Brandy chưng cất từ nho hay các loại trái cây đã lên men theo kỹ thuật cổ truyền , đạt nồng dộ từ 70-80, sau khi rượu phải qua hai lần chưng cất rồi đem ủ vào các thùng gổ sồi để oxy hoá. Cuối cùng thêm vào rượu nước cốt Caramel để hạ nồng độ xuống còn 40 cố định, hiện nay có hai loại Cognac và Armagnac. Cognac chế bằng loại nho đặc biệt được trồng tại những miền lựa chọn, nho tươi ép lấy nước cốt để lên men trước khi cho vào nồi chưng. Nhiều loại cognac nổi tiếng hiện nay như Hennessy, Martell, Remy Martell, Courvoisier,Napoleon,Roi des Rois.. Riêng Armagnac được chế tạo bằng các loại nho St.Emillion, Folle Blanche và Colombard trồng ở vùng Gascony phía nam tỉnh Bordeaux,Pháp, cách chưng cất hai loại rượu giống nhau nhưng rượu này dùng nồi cất có cột và rượu được ủ trong thùng gổ sồi, rượu uống gắt nhưng hương vị đậm đà. Tại Ý có cognac gọi là Marc và Grappa, chưng cất từ vỏ và hạt nho, có màu xanh nhạt , gắt hơn rượu Pháp nhưng được nhiều nước Âu Châu thích, nhất là loại Grappa Italy, chế tạo tại vùng Pied Monte và Barbara.Về loại Rum. Ron (Tây Ban Nha) và Rhum (Pháp) đều chế bằng mía,theo truyền thuyết được quân viễn chinh Mông Cổ và Hung Nô từ Trung Á mang vào trồng tại Âu Châu đầu tiên, sau đó Kha Luân Bố mang đến trồng tại Châu Mỹ La Tinh và Cu Ba. Ngày nay Rum được chế tại hầu hết các quốc gia trồng mía, dùng để pha cocktail nhưng nhiều người vẫn thích uống nguyên chất vì nồng độ rất cao, so với các loại brandy khác.Tại Jalisco, Mễ Tây Cơ có loại rượu nổi tiếng Tequilla, chưng cất từ nước cốt lên men của một loại cây cùng họ với cây xương rồng gọi là Tequilla Weber , nồng độ chừng 40, có vị thảo mộc, khi uống pha với nước chanh.Vodka là loại rượu mạnh không màu, gần giống như đế của VN hay Phục Ðặc Gia Tửu của Tàu, chế biến từ các loại lương thực ngâm nước nóng. Riêng Vodka Ba Lan và Nga, nấu bằng khoai tây, có nồng độ ban đầu tới 95, sau đó giảm dần chỉ còn 45-50., đặc biệt loại này không cần ủ mà chỉ cần lọc hết màu và mùi vị để trở thành trong suốt.Trừ các tay cao thủ trong Lưu Linh phái uống nguyên chất, còn hầu hết phải uống qua sự pha chế với các loại nước trái cây cho rượu hạ bớt nồng độ. Cuối cùng là rượu GIN của Hòa Lan do tiến sĩ Sylvius sáng chế năm 1650, từ sự chưng cất các loại hạt (bắp, lúa), trộn với các hương liệu như quế, hạnh nh6an, côca,gừng, vỏ chanh, vỏ cam.. có nồng độ từ 34-47.3-CHUYỆN LẠ VỀ RƯỢU :+ CUỘC CHIẾN RƯỢU Ở MEXICO : Mỗi chai rượu Tequila theo thời giá hiện nay bán trên 100 đô la vì vậy nhiều người làm rượu giả. Năm 1999 đã có 1307 vụ xô xát về rượu Tequila tại Mễ Tây Cơ, làm 42 người chết và hằng ngàn người khác bi thương. Theo tin từ tờ NewsWeek và USA Today ngày 8-9-2000, có tường thuật cuộc chiến rượu giả Weber Blue nấu bằng cây thùa và đậu Hà Lan, mới vừa phát minh từ tiền bán thế kỷ XX và loại nổi tiếng hơn 1000 năm qua là Tequila, cũng được nấu bằng hat cây thùa. Vì giá cả và phẩm chất khiến rượu giả Weber Blue nhiều lần đánh bật rượu thật Tequila, và cuộc chiến giữa hai thứ rượu đã bùng nổ ngay trên quê hương của Tequila. Cuộc tranh chấp thật dã mang, người ta dùng đủ mọi thủ đoạn để hại nhau, từ đâm chém, bắn giết, phá hoại ruộng vuờn trồng trọt và cả cách làm rượu giả để hạ uy tín lẫn nhau. Vì cách thức cất rượu qúa dễ và kiếm lời nhiều, nên nhiều Bang khác của Mễ cũng bắt chước trồng đậu Hà Lan và thùa để chế rượu Tequilq và Weber Blue. Ðể chế biến rượu cho mới lạ, thành một thứ hổn hợp, không giống ai vì nhái theo mùi vị và kiểu chai cognac hay champagne, rượu Whisky của Mỹ, Tô Cách Lan...... bằng cách trộn thêm đủ thứ như mía, bắp, củ cải, trái cây.. bán khắp nước và xuất cảng. Từ thập niên 1950-1994, các bang Oxaca, Guadalajara, Monterrey,Juarez.. bùng nổ kỹ nghệ sản xuất rượu , chỉ riêng Tequila đã có hơn 600 loại., thượng vàng hạ cám. Còn một điều lạ khác là các nước Âu Mỹ cũng bắt chước người Mễ làm rượu giã và Mễ Tây Cơ hiện nay là quốc gia sản xuất rượu nhiều nhất thế giới.+ BÔNENKAI,TRUYỀN THỐNG UỐNG CẠN LY CỦA NGƯỜI NHẬT : Bônenkai, từ nguyên Hán-Việt có nghĩa là vọng niên hội, một biểu hiện cao nhất của tính cách hai mặt, trong đời sống Nhật Bản., nghiêm trang đứng đắn lúc ban ngày và trở thành kẻ rất xa lạ về đêm trong các tửu quán, nơi bộc lộ một cách trần trụi nhất tính bạo lực tiềm ẩn trong xã hội công nghệp đang phát triển tợt bực. Tóm lại trong các cuộc vui mọi người phải hoà mình và quên hết thân phận nhưng trên hết phải biết uống rượu và hát.Theo nhà xã hội học Nobutake Kanzaki, thì tập tục uống cạn ly trong bàn tiệc, bắt nguồn từ các nước Ðông Nam Á và Nhật Bản, về muà hè nóng và ẳm ướt, nên việc bảo quản rượu lên men thời xưa rất khó khăn. Vì thế trong mùa hội hè, người ta có thói quen uống sạch rượu dự trữ từ 1 tới 3 ngày. Trái lại ở Âu Châu, mùa hè khô ráo, rượu tha hồ để lâu, nên người ta nhấm nháp tuỳ theo ý muốn và gọi đó là kiểu Ðịa Trung Hải, còn uống cạn ly như Nhật là kiểu gió mùa. Cho nên điều cốt yếu trong một bàn tiệc là rượu phải chảy như suối,tất cả mọi người phải say để đạt tới một sự cộng thông về tinh thần, đây cũng là thói quen từ xưa của người Nhật, uống rượu liên tục và khi họ say thì hát và chơi các trò vui nho nhỏ.Tại vùng Á Ðông, người Nhật có phong tục thờ cúng tổ tiên đặc biệt. Ngày Tết, cúng rượu Saké cho thần thánh và tổ tiên xong, số ruợu còn lại ho uống để chúc tụng. Người Anh có lối chúc rượu nhau gọi là Toast bắt nguồn từ một phong tục cổ truyền hồi thế kỷ XVI . Thời ấy người Anh mỗi khi uống rượu thường bẽ một mẫu bánh mì nướng bỏ vào ly rượu cho thêm hương vị. Ngày nay Toast có nghĩa là cạn ly.Ngoài ra họ còn một phong tục rất giống người Việt , đó là luân phiên nhau uống rượu trong cùng một cái ly bằng bạc, có hai tay cầm. Những ngày đầu năm tết lễ, người Mỹ dùng rượu để chúc mừng lẫn nhau. Trong một bửa tiệc có Mục sư Martin Luther King tham dự, một nhà báo đã nâng ly chúc mừng :” cầu xin Thượng Ðế hãy cho nước Mỹ có những con người không vì danh lợi mà hại dân, không vì vinh thân mà bán nước..” Tóm lại kẻ sĩ uống rượu là để thực hành cái nhân sinh quan bất biến :” Thề,Chết,Trốn,Uống” nghĩa là Thề vì Tổ Quốc, Chết cho Chính Nghĩa, Trốn khỏi bọn gian ác bất lương và Uống với Bạn Hiền .Ai cũng biết rượu là nguyên nhân gây ra phiền phức cho con người . Nhưng tự cổ tới kim, thế nhân vẫn lao đầu vào rượu đến độ như Lý Bạch trong cơn say thấy bóng trăng phản chiếu trên mặt sông Thái Thạch , đưa tay vói bắt đến nổi té xuống nước chết đuối. Người xưa dùng rượu để quên ta, quên đời, quên sầu, quên tất cả như Nguyễn Công Trứ :” rượu với sầu như gió mã ngưu, trong lai láng biết tránh đâu cho khỏi..”, Còn Cao Bá Quát thì :” thôi công đâu chuốc lấy sự đời. Tiêu khiển một vài chung lếu láo.Ðoạn tống nhất sinh duy hữu tửu.” hoặc :” lắc bầu rượu , dốc nghiêng non nước lại. Chén tiếu đàm , mời mọc trích tiên..”Người đời nay cũng đâu khác đời xưa, trước tâm sự ngổn ngang tận tuyệt, chỉ còn biết mượn rượu để tống biệt sầu buồn :“ Ai người tri kỷHãy cùng ta cạn một hồ trường(Nguyễn Bá Trạc)hay :” Ðất trời nghiêng ngửaThành sầu không sụp đổ em ơi..”(Vũ Hoàng Chương).Thật ra con người coi rượu là tri kỷ cũng đáng vì rượu là niềm vui cũng như nổi buồn, khi trùng phùng cũng như hồi ly biệt, bâng khuâng thương nhớ khi nhắp ly rượu đào. Hóa ra hạnh phúc nhiều khi không phải là tưng bừng cao lương mỹ vị, mà chỉ cần có những mặn mòi nồng ấm quê hương, một nơi cho nổi nhớ biết chốn đi về, ở đó hình như những ngày xuân củ có bạn, có ta, có người em gái .. cười vui chếch choáng xuân thì -/-Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy DiChạp 2013Mường Giang
|
Nói về cái gì mà " thiên hạ " ghét trước, hãy bàn về Rượu.
Thuở nhỏ, tôi hay đọc văn thơ lặt vặt - sở dĩ dùng chữ lặt vặt vì lúc nhỏ tôi nhác học văn chương lắm, cho dù tên tôi là Văn - nên đọc được câu thơ nào thấy thú vị hay hạp với mình thì cứ nhớ mãi, cho dù đã bao nhiêu năm về sau. Xin trích đây mấy câu chữ Hán cho ra cái điều ta đây cũng " Háng " rộng, với lại để cho đúng với chữ của cổ nhân: " Xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ ". ( Xin đừng bày đặt hiểu bậy hiểu bạ để xuyên tạc là tôi nói móc lò mấy ai cứ đem tiền ra cho các Thẩm mỹ viện tiêu giùm ).
" Nam vô tửu như kỳ vô phong ", hoặc
" Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
" Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tì bà mã thượng thôi " ( hai câu sau cũng rất hay nhưng không muốn trích vì không thấy dính tới Rượu ).
Rồi thơ Việt như :
" Đất say đất cũng lăn quay
Trời say Trời cũng đỏ gay ai cười " ...
Trời say Trời cũng đỏ gay ai cười " ...
Hay tới chuyện viết trong sách Giáo Khoa Thư lớp Đồng Ấu hay lớp Dự Bị. ( Ôi chao ơi, nếu tôi học được và hành được những gì Thầy Cô đã dạy cho học trò lớp Đồng Ấu thôi, ví dụ như đừng có nói dối, đừng làm những gì mình không muốn người khác làm cho mình, v.v. ... thì tôi đã " thành nhơn " rồi chứ không còn bậy bạ như thằng tôi đang viết những giòng này ).
Truyện kể rằng có một chàng kia vì một lý do gì đó đã bị một ông thần bắt buộc chàng phải về nhà giết cha , hay giết mẹ: Chàng dĩ nhiên từ chối không làm chuyện đó, rồi ông thần cho chàng một giải pháp khác là nếu như vậy nhà ngươi phải uống rượu. Chàng kia thấy giải quyết như vậy có vẻ OK, vì mình chỉ uống rượu mà thôi. Ai dè khi chàng uống rượu say lướt khướt rồi thì đâu còn biết gì nữa đâu: chàng giết luôn cả cha lẫn mẹ !!
Đó thấy không ? Rượu là hại lắm lắm, nhất là mấy quý vị Phật tử thì lại càng nên lưu tâm cẩn thận hơn vì trong ngũ giới, giới Tửu là một giới phải giữ. Ủa vậy chớ hại như rứa mà chú mầy lại bày đặt viết về rượu có phải là muốn hại nhau không ?
Ai cha, như đã trình bày ở trên, nếu ai ai cũng đàng hoàng, ai ai cũng ngoan ngoãn theo lời Thầy Cô dạy từ nhỏ thì đâu có chuyện, đâu có cõi tùm lum, tà la này, đâu còn thiên hạ sự, đâu còn chuyện để nói nữa ! Thái bình thịnh trị.
( Ê, Thầy Cô dạy, nghe được thì nghe theo, chớ đừng bắt chước những gì Thầy Cô làm, bởi vì nói thì nói vậy thôi chớ Thầy Cô là ai nếu không phải là chúng ta đang mặc áo mô phạm, mà Ta thì đâu đã thánh thiện, đâu đã đạt đạo !)
Vì Ta chưa thánh thiện nên ta hay dòm dòm ngó ngó xem thiên hạ làm gì ... để ... bắt chước. Bởi vậy mới sinh chuyện ! Dòm tới dòm lui, dòm qua dòm lại, thấy có nhiều đạo cho uống rượu, như đạo Thiên Chúa cho con chiên rượu lễ chẳng hạn, v.v. ..., rứa là ta có cớ để hủ hóa, để hư, để bày chuyện !
Quý bạn đọc sẽ đọc sau đây những chi tiết về rượu không có tính cách " hàn lâm " như là có bao nhiêu thứ rượu, làm bằng vật liệu gì, làm ra sao, uống có công dụng gì, v.v. ... mà chỉ đưa ra một vài cảm nhận lúc uống rượu cùng một ý kiến của riêng tôi về cách uống rượu.
Nói phét là như vậy, nhưng làm sao mà có thể nói cho hết những loại rượu đang bán trên thị trường, nên đành giới hạn ở nơi bài này chỉ nói về một thứ rượu mà phe ta hay dùng : rượu Cognac.
Trước đây ở Việt Nam tôi thường được các cao thủ võ lâm trong làng Công Chánh dạy cho cách uống rượu Cognac, đó là các anh TND (nay đã quá cố), HĐL (đang sống hùng mạnh ở San Jose), v.v. ... dẫn dắt vào con đường " rượu chè ". Nhớ những lần TND, HĐL vào công tác Sài Gòn là thế nào tôi cũng được đi lẽo đẽo theo các đàn anh để hầu rượu ( nói cho khéo, chớ thiệt là để uống keù ). Những tên được nhắc đến trong các buổi nhậu nhẹt tôi học vỡ lòng về rượu nho từ TND: nào là Martel Trois Étoiles, nắp mở bằng nút xoắn, nào là Cordon Bleu, rồi là Cordon D'argent v.v... nghe nói không cũng thấy " đã " rồi, trong khi mình đang được uống Martel " chùa ", và đang phá " mồi " ( có nghĩa là " ăn " nhiều hơn " uống " ). Các đàn anh cứ phán, đàn em đang lắng nghe và đàn em " đớp " đều đều. Tôi vẫn còn nhớ như hôm qua TND với ĐST cùng HĐL đạp xe đạp chạy theo tôi vào Chợ Lớn " đổi " rượu để đi nhậu. Số là như vầy: Mấy đàn anh sau biến cố 1975 thì khá kẹt tiền vì đâu có ai làm ra tiền nữa, nên đâu còn vung vít như ngày xưa thân ái. Nhưng " ăn quen mà nhịn chẳng quen ". Qua những buổi bàn bạc với nhau, chúng tôi mới biết là vì ít uống rượu mà bạn bè lại mới biếu Tết nhiều chai rượu nên anh ĐST đang có nhiều chai Martel nằm yên trong tủ. Làm sao mà nói mấy chị cho mấy anh chút chút đi nhậu cho cam ? Bèn thở dài thở vắn, nhớ tới " thời oanh liệt nay còn đâu ". Tôi mới bàn với anh em như sau : Mình lấy hai chai Martel, đi vào Chợ Lớn, chỗ tôi có quen biết để " mại " một chai, lấy tiền để nhậu chai thứ hai với nhau. Vậy là xong: vẫn ngon lành như xưa, cũng đủ món đồ nhậu trong Chợ Cũ, mà cũng còn dư để đi ăn thêm Phở hôm sau. Vui quá phải không anh T, anh L ?
Qua đây có dịp và có nhiều phương tiện, tôi tiếp tục sự nghiệp uống Cognac. Nếu nói Cognac mà không đưa ra một vài chi tiết thì thấy không được, nên phải viết ra một ít để quý bạn dễ theo dõi con đường " say sưa ".
Trước hết xin nói rõ Cognac là một loại rượu cất từ nho, gọi chung tên là Brandy. Tuy vậy, chỉ Brandy làm từ vùng Cognac ở Pháp mới được gọi là Cognac. Còn nếu Brandy làm từ chỗ khác thì không được dùng tên gọi Cognac, ví dụ làm từ Armagnac hay ở California chẳng hạn.
Thị trấn Cognac ở Pháp nằm ở phía Tây Nam thành phố Paris khoảng 200 miles trên bờ sông Charentes, và bao gồm sáu districts: Grande Champagne, Petite Champagne, Fin Bois, Bois Ordinaire và Borderies. Xin phân biệt Champagne ở đây là một district của thị trấn Cognac, chớ không phải là Champagne ở Đông Bắc Paris gồm có Reims, Epernay v.v... sản xuất rượu bọt ( vin mousseux ) nổi tiếng Champagne.
Nho dùng trong Cognac là loại Ugni blanc, Colombard với Folle blanche. Còn nho dùng trong các rượu vang khác thường là Cabernet Sauvignon, Merlot Chardonay, Pinot Noir, Syrah, hoặc là Riesling.
Chỉ khi nào dùng 100 % nho trồng ở district Grande Champagne thì Cognac mới đề ngoài nhãn là " Grande Champagne ", còn Fine Champagne thường thấy đề ở một số rượu như Remy Martin chẳng hạn thì chỉ có khoảng 50% nho của Grande Champagne, phần còn lại là nho ở Petite Champagne. Vậy chớ hai district này có gì đặc biệt mà cứ mãi nói về chúng hoài : Tất cả là do cái bouquet của nho trồng ở hai nơi đó. Mà trong chúng ta ai cũng đều biết là ăn hay uống, có bạn lại thêm là cả con người cũng vậy ) ta thường đánh giá trên ba điểm chính : Sắc, Vị, Hương. Hương là khó nhất. Các hãng nước hoa là một thí dụ điển hình : chỉ cần một mùi hương là đã kéo lại cho chúng ta một " bầu trời thương nhớ cũ ". Thôi, không bàn lang bang sợ lại không viết được nhiều cho chủ đề chính là Cognac.
Cognac phải được cất hai lần trong các lò cất bằng đồng đốt trực tiếp bằng lửa ngọn. Sản phẩm do lần cất thứ nhất cho khoảng 30% alchohol. Sau lần thứ nhì, ta được KHOẢNG 70% alchohol. Mỗi lần cất như vậy lâu vào khoảng 12 giờ. Phần đầu và phần cuối của các sản phẩm này đều không được dùng, chỉ phần giữa là được giữ lại để ủ trong các thùng chứa bằng gỗ sồi (oak) lấy trong rừng thiên nhiên Limosin hay vùng rừng nhân tạo Troncais. Xin lưu ý ở đây là Cognac ngon hay không ngon cũng là nhờ giai đoạn ủ trong các thùng này, không được dùng đinh hay keo để làm thành thùng tonneau, gồm các mảnh gỗ sồi phải được chẻ bằng tay chớ không dùng cưa để xẻ và được bó chặt với nhau bằng các đai kim loại. Cognac đựng trong các thùng này, tuy rất kín, vẫn bị mất khoảng 3% do bay hơi mà dân Pháp gọi là phần rượu của Thiên Thần ( part des Anges). Chính trong khi ủ trong thùng bằng gỗ sồi này mà Cognac hấp thụ cả màu sắc lẫn hương thơm.
Các hãng sản xuất rượu Cognac thường được bày bán trên thị trường ta có thể kể : Martel, Hennessy, Remy Martin, Courvoisier, Delamain, Hine, Camus, Otard, Pierre Ferrand v.v...
Về phân loại hạng cấp đi từ dưới lên trên: bắt đầu là V.S. (Very Superior), muốn được ghi là VS, Cognac phải được ủ trong các thùng sồi ít nhất là 2 năm rưỡi tính theo luật lệ rượu của Pháp, tuy vậy Cognac VS thường được ủ khoảng 4 hay 5 năm; kế là V.S.O.P. ( Very Superior Old Pale, mà ở Việt Nam, các bậc đàn anh kháo với tôi là Verser Sans Oublier Personne), tính theo luật thì chỉ cần 4 hay 5 năm nằm thùng, nhưng thường thì họ cho ngâm lâu hơn, có khi 5 năm hay cho đến cả chục năm. Tiếp đến là Napoleon ( xin nhớ đây là hạng cấp Napoleon chớ không phải rượu tên là Napoleon thường bày bán để dân không rành uống rượu mua nhầm. Ta có Courvoisier Napoleon, Remy Martin Napoleon, còn Martel thì không đề Napoleon mà dùng chữ Cordon Bleu). Thứ đến là X.O. (Extra Old), và trên hết là Extra. Các loại trên này thì theo luật phải nằm thùng từ sáu năm trở lên, nhưng các hãng Cognac thường cho nằm trên chục năm cho đến cả trăm năm tùy theo hãng sản xuất và sản phẩm đặc biệt nói ở dưới đây. Nói về Cognac Extra thì rất là nhiều loại đặc biệt.
Ví dụ nói riêng về Công ty Courvoisier chẳng hạn: nhiều loại Extra như Chateau Limoges ở trong bình bằng Porcelain, VOC ở trong bình bằng pha lê (crystal) của hãng Baccarat, rồi có một series đặc biệt gọi là Series Erté - Erté là tên hiệu của một họa sĩ người Nga, ông này vẽ cho các hộp đêm sang trọng của Paris như Folies Bergères - Series Erté đặc biệt ở chỗ là chỉ sản xuất bảy ( 7 ) chai, mỗi năm một chai đánh số 1 tới số 7. Mỗi chai có một tên riêng: Vignes, Vendange, Distillation, Vieillissement, Degustation, Part des Anges, l'Esprit du Cognac, và chỉ sản xuất 12.000 chai, có đánh số từng chai. Chai số 1 vào năm 1989 và chai số 7 vào năm 1995. Sau đó vì còn một ít rượu nên Courvoisier sản xuất thêm một chai cuối gọi là Inedit, chỉ sản xuất được 4.000, thay vì 12.000 như những chai trước. Rượu đựng ở trong các chai này được lấy từ những thùng rượu rất là lâu đời, có rượu ủ trong thùng từ năm 1897 ( là năm sinh của Erté nên mới có tên cho series này). Tại Little Sài Gòn, có chợ Việt Nam Đồng Hương bày bán một bộ từ chai số 1 đến chai số 7 ( không có chai thêm sau cùng Inedit), chỉ biết nguyên bộ đó bị đánh cắp. Quý bạn ở Nam Cali cũng có thể xem các chai này đang bày bán ở chợ Hawaii trên vùng Alhambra/Monterey Park hoặc chợ Asahi tại Little Saigon.
Còn về các Công ty như Remy Martin, Việt Nam hay biết tới là chai Louis XIII đựng trong bình pha lê do Baccarat làm, hoặc Hennessy Paradis. Đại để là nói tới Extra thì rất là nhiều, bàn không hết được, chỉ biết " để mà biết chứ không phải để mà uống ". Xin quý bạn đừng chê kẻ hèn này, tội nghiệp. Vì " có mà không xài cũng coi là không có ". ( Câu tôi đã viết về thi P.E. cách đây hơn hai mươi năm: Có mà không xài còn hơn là không có. Vậy mới biết câu " trước sau như một " là như vậy ). Đây là nói về rượu, chứ nếu đổi chữ rượu ra chữ tiền thì cũng giống y chang: Bạn có rất nhiều tiền để ở trong nhà băng mà không xài thì cũng như là không có. Bạn chỉ hơn người khác có vài số zero ở trong compte thôi. Khổ một cái là nếu tiêu thì hết. Bởi vậy cho nên không tiêu, và giống như Catch 22, vì sợ tiêu hết nên không dám tiêu cho nên coi như có cũng như không. Đúng là "Sắc bất dị không, Không bất dị sắc; Sắc tức là không, Không tức là sắc". ( Đây là tôi nhập tâm tầm bậy nên vụt miệng đọc đại câu kinh hay đọc trong Bát Nhã Tâm Kinh. Xin đừng chấp. Vì Chấp Có còn đỡ hơn là Chấp Không. Huống hồ là chấp thằng Văn khi nó nói Tầm Phải ).
Đến đây tôi lại nhớ lời của một nhân viên an toàn của công ty Aramco ở Saudi Arabia đã dặn rõ cho tất cả nhân viên mới tới vùng này làm việc là hãy coi chừng những lỗi lầm ngu xuẩn như sau : Tất cả những người lạc trong sa mạc thì khát mà chết, nhưng khôi hài là bên cạnh những xác chết đó vẫn còn gần đầy bình nước dự trữ mang theo. Họ mang nước theo, nhưng không dám uống, sợ hết nước thì chết và họ đã chết trước khi hết nước. Bà con ơi, có ai trong chúng ta có tiền mà không dám tiêu, vì sợ lỡ tiêu hết thì không còn nữa, nguy quá, cho nên cho đến chết cũng còn quá nhiều tiền, trong khi lúc sống không dám hưởng. "Tiền chỉ có giá trị khi được tiêu đi ". Tiền không tiêu chỉ là con số, nằm ỏng a ỏng oảnh trong ngân hàng, không khác gì tờ giấy lộn. Vậy anh em ơi, " Hãy tiêu đi, hãy tiêu đi ". Các bạn không tin thì hãy thử : Không tiêu làm sao biết cái sướng của sự tiêu. Enjoy đi, không sao đâu !
Tuy nhiên nếu có ai hỏi, xin cứ mạnh dạn đổ thừa là nghe theo lời Ái Văn đó. Chỉ xin anh em đừng cho vợ tôi biết tôi cổ động chuyện tiêu pha này nhé. Được vậy là tôi cảm ơn bạn ngút ngàn rồi.
Xin trở lại với rượu và trà.
Chắc quý vị cũng muốn nghe bàn về cách uống rượu như thế nào để xem thử thằng Văn này nói ra răng ?
Như đã thưa trước, xin viết ra đây một vài cách uống Cognac.
Theo kiểu Việt Nam hay Tàu thì thường uống Cognac pha với nước Soda hay nước suối có sủi bọt như Perrier hòa chung với nước đá cục, và uống như rượu vang trắng. Đấy là cách tôi học được lúc mới "mở mắt" bài học Cognac. Có lẽ tại Việt Nam nóng nên thường uống pha với nước đá, cũng giống như mình uống cà phê sữa đá vậy. (Ê, chú mày nói vậy chớ bộ tụi Tây, tụi Mỹ uống trà đá Lipton thì sao ? Áy Ya, uống kiểu đó là uống theo kiểu tụi Tây, tụi Mỹ, còn đây là bàn cho TA là Việt Nam thì nên uống theo kiểu, kiểu ... kiểu ... cà lăm, vì chẳng là kiểu gì hết. Thôi thì chịu khó đọc tiếp cái đã). Xin nói thêm là nhiều nơi, ngay cả ở Pháp họ cũng uống " à l'eau ", pha với nước lạnh và bên Ăng Lê họ uống Cognac chung với Coca-Cola. Uống thế nào mình thấy hợp khẩu vị là được rồi. Nhưng để xem dân Pháp chính gốc họ uống ra răng đã. Sau đây là phần tôi đọc trong mấy cuốn sách nói về Cognac và trên Website, xin tóm lại đây hầu quý vị.
Thú uống Cognac nguyên chất (không pha thêm nước chi hết, cũng không có nước đá) - uống Cognac rót lên nước đá cục gọi là "on the rock" cũng được, nếu dùng loại VS, VSOP hay Napoléon thôi, chứ XO hay Extra mà pha như vậy e uổng phí mất cả phần hương, bớt mất vị, mà ngay cả phần sắc nữa, nhưng như đã viết ở trên "uống thế nào mà ta thấy ngon" là được rối - là rót rượu vào ly, xin chớ rót quá 1/3 ly nhé (nên dùng ly vừa tầm tay của mình, để humaniser rượu bằng lòng bàn tay cho ấm), nhìn màu rượu óng ánh trong ly (nếu có ly crystal thì đẹp mắt hơn: quý vị đang NHÌN em để thấy sắc diện em), bạn cầm ly xoay quanh để nước sóng sánh khắp ly cốt là để cho hương của Cognac bốc lên, bạn dùng khứu giác nhưng đừng để mũi bạn quá sát vào ly sợ e mùi hương quá nồng làm mất đi cái mùi hương (bạn đang thưởng thức MÙI của em, thích nhé) - viết đến đây bỗng nhớ đến truyện của Kim Dung nói về mùi hương của đàn bà, của con gái trong truyện Lục Mạch Thần Kiếm khi Đoàn Dự tả về Mộc Uyển Thanh với lại Vương ngọc Yến cùng với hương trà của Vương phu nhân, chắc quý bạn lại nghĩ là sau khi cho khứu giác thưởng thức rồi, thì chắc là sẽ "uống" chăng? CHƯA, đúng ra là KHOAN đã (đó, quý bạn vẫn có thói quen mà bị la mãi vẫn không nhớ: cứ từ từ, đi đâu mà vội mà vàng, cứ quýnh quýnh, quáng quáng, lụp cha lụp chụp). Trong sách Pháp về Cognac nói rằng: sau khi đã thưởng thức mùi của em (Cognac) xong thì để ly rượu xuống để NÓI về Cognac, BÀN về Cognac.
Đấy mới là điểm chính: cốt tủy của uống rượu không phải là "uống" mà là "nói", nói về chuyện tùm lum, tà la, ba hoa thiên địa vì TA gặp được nhau là chính, chẳng lẽ không ăn, không uống, nên phải có cho chứ, chứ chính là "gặp nhau". Chắc quý bạn cũng đồng ý với Lâm Ngữ Đường viết trong cuốn The Importance of Living xuất bản năm 1937 (Ái hữu lão thành Nguyễn Hiến Lê đã dịch ra từ bản dịch tiếng Pháp là Một Nếp Sống Đẹp thì phải) là người xưa đã trèo non, lặn suối, để đi đến nhà bạn, thăm nhau và uống với nhau một tách trà, hay một ly rượu để đàm đạo, rồi lại lội suối hay đội mưa trở về. Đây là một cái thú của cuộc đời.
Sau khi nói đã rồi mới uống. Xin bàn một tí về cách uống ở đây. Bạn chỉ nên uống một cụm nhỏ vừa đủ để đầy một phần miệng, ngậm trong miệng một chút, lấy lưỡi quay quanh để rượu có thể đến đầy ắp tất cả các vành trong và nướu răng, rồi uống ực một cái thiệt mạnh: hương rượu sẽ hừng hực bốc lên trên mũi để cho khứu giác một lần nữa được hưởng EM. Phần sau còn sót lại trong vị giác gọi là dư vị (after taste), tùy theo rượu ngon hay không là ở điểm hương và dư vị này, vì loại nào đi nữa thì nồng độ rượu vẫn chỉ là 40% cả. Rượu ngon thì cho ta cảm giác là nó nhẹ, dịu ngọt (cũng như đàn bà vậy: bà nào bà nấy cũng dịu dàng, cũng dễ thương, cũng ngọt ngào cho đến..., cho đến..., cho đến lúc mấy bà DỮ: Eo ôi, mèo nằm êm trên tay ta nũng nịu với ta hôm qua, nay biến thành hình Sư Tử đang gào thét và đang nhe răng sắp ăn sống nuốt chửng ta đây. Ôi trước sau gì cũng chết, thôi đành chết trong miệng mấy bà Sư Tử cho nó oai chứ không lẽ chết trong miệng mấy mèo con !!).
Nói về loại rượu nào nên uống nếu quý vị chưa có thói quen uống: Xin đề nghị quý bạn bắt đầu từ loại rẻ nhất (VS), hãy uống pha với Perrier chứ đừng dùng Club Soda hơi đắng, hay pha với nước cũng được, rồi leo lần lên bằng cách uống các loại mắc hơn một chút : (VSOP), cũng pha với Perrier, sau đó hãy thử uống không pha chi hết với nước đá on the rock mà thôi. Rồi thử uống nguyên chất với loại Napoleon hay XO. Sau đó quý bạn biết sẽ uống như thế nào là hợp vơi khẩu vị của mình. Xin nhắc là MÌNH uống cho MÌNH chứ không phải mình uống cho ai cả nên loại nào cũng NGON cả. Quên nói là mua rượu ở đâu rẻ: Nếu là vùng Nam Cali thì cứ vào mấy siêu thị Việt Nam hay Tàu thì mua các hiệu như Martel, Hennessy, Courvoisier, Remy Martin rất rẻ so với Liquor Store khác, nhất là vào các dịp Tết Tây, Tết Ta. Nhưng các bạn muốn mua các loại đặc biệt NGON mà RẺ, nhưng phe TA ít biết tới vì cũng lại là thói quen chỉ hay uống bốn hãng trên mà thôi, như Delamain XO chẳng hạn, thì xin giới thiệu quý bạn mấy chỗ như Hi-Times Cellars ở Costa Mesa, hay Wine Exchange ở Anaheim.
Quên nói là uống Cognac lúc nào thì thích hợp nhất: Nếu uống với Perrier thì uống thay cho rượu vang trắng từ đầu tới mãn táng cuộc vui cũng quá đủ. Nhưng nếu uống nguyên chất thì sau bữa ăn, sau khi uống Port ( fortified wine, rất độc đáo vì nó vừa ngọt lại vừa ngon), sau khi uống TRÀ hay CÀ PHÊ xong, sau khi đã uống liqueurs như Cointreau hay Grand Marnier, ta mới uống Cognac ngon để đi ra về ( quên, uống là phải nói phét rồi mới về ). Còn lại chủ nhà phải lo dọn dẹp thì tôi đề nghị: Xin khoan rửa các ly dùng để uống Cognac, hãy để các ly đó đến ngày hôm sau, lúc đó mùi hương Cognac vẫn còn đó. Mùi HƯƠNG vẫn còn, và đó là một mùi rất dịu và làm ta lại nhớ đến em (Cognac). " Để tưởng nhớ mùi hương - Truyện dài của Mai Thảo ".
Bài này đã quá dài sợ viết thêm nữa e có bạn sẽ chán đọc nên xin hẹn sẽ viết bài về Trà cho nhẹ nhàng hơn để hầu quý bạn.
Tái bút:
Này, Chú mày đang uống gì đó ? Dạ em đang uống Perrier sec ( nghĩa là nước suối nguyên chất. Còn tiền của chú mày thì sao ? Dạ em nào có account ngân hàng đâu, chỉ có nhà em có account mà thôi. And that is " HER " business.
( Đừng nghe những gì ... hãy nhìn kỹ ... ) vẫn còn đúng ở Thiên Niên Kỷ này !
( Đừng nghe những gì ... hãy nhìn kỹ ... ) vẫn còn đúng ở Thiên Niên Kỷ này !
. | |
|
Martel
-VIEW :10 Most Expensive Whiskeys In The World
Rượu và Thơ
Từ xưa đến nay, có rượu thì ra thơ, mà thơ thì ca tụng rượu. Đó là chân lý dưới mọi bầu trời.
Nơi đâu cũng mượn chén rượu để quên hoặc vượt qua cái hiện thực đáng buồn hoặc ngược lại, để mừng công, chúc tụng nhau. Nhưng thái độ với người say và với rượu khác nhau, tùy theo từng nền văn hoá.
Ở phương Tây, nói chung nghiện rượu bị coi là một bệnh xã hội, đạo lý lên án. Ở ta và các nước Đông Á, trừ những tay nát rượu bê tha, rượu lại được đề cao, coi là đồ cúng thiêng liêng. Rượu không những là cách tiêu sầu cho các bậc tao nhã mà còn là phương tiện giải thoát “phận người”, đạt tới cái lâng lâng, tâm nhập vào vũ trụ, tan biến vào hư vô của Phật Lão.
Trong Đường thi, Lý Bạch là ngôi sao “rượu và thơ”. Ông rất thích rượu, nhưng không hề bị chê trách là bê tha. Trái lại, trong cuộc đời riêng, đối với gia đình, bè bạn, nhân dân và bản thân, ông luôn tỏ ra chân thành, nhân hậu và bình dị. Rượu giúp ông thể hiện bản sắc thơ ông, mà đời sau đánh giá là “phiêu dạt, hào phóng” (khoáng đạt, thanh thoát tự nhiên), vươn tới cái cao xa. Bài Thơ trước khi chuốc rượu của ông nổi tiếng: Nước sông Hoàng Hà chảy ra biển mất hút, tóc con người thoắt từ đen thành trắng, vậy hãy uống đi, mong say, không mong tỉnh. Hãy bán ngựa và áo quý lấy tiền mua rượu ngon để cùng nhau tiêu tan “vạn cổ sầu” của kiếp người.
Ở ta, Tản Đà cũng có cái “ngông” của Lý Bạch. Ông mượn thơ và rượu để nói lên cái u uất, khát vọng và tình người của mình:
Trời đất sinh ra rượu với thơ
Không thơ không rượu sống như thừa
Công danh hai chữ mùi men nhạt
Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ
Mạch nước sông Đà tuôn róc rách
Ngàn mây non Tản mắt lơ mơ
Còn thơ còn rượu còn xuân mãi
Còn mãi xuân còn rượu với thơ
(Ngày xuân thơ rượu)
Còn thơ còn rượu là để:
Đất say đất cũng lăn quay
Trời say trời cũng đỏ gay ai cười!
Cuộc lợi danh như chiêm bao, vậy thì:
Thương ai cho bận lòng đây
Cho vơi hũ rượu cho đầy túi thơ
Cảnh đời gió gió mưa mưa
Buồn trông, ta phải say sưa đỡ buồn
Rượu say thơ lại khơi nguồn
Nên thơ rượu cũng thêm ngon giọng tình
Rượu thơ mình lại với mình
Khi say quên cả cái hình phù du
Bầu rượu túi thơ, lãng du giang hồ là điển hình cho văn nhân thời trước, muốn tìm lối thoát cho cái tôi bị Khổng giáo và xã hội đè nén.
Trong truyện Kiều, có những câu thơ nói đến rượu cùng cảm xúc thơ như:
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Bầu tiên chuốc rượu câu thần nối thơ
Mảng vui rượu sớm cờ trưa
Vị chúa thơ rượu nổi danh Đông Tây là Omar Khayyam (thế kỷ 10). Có điều lạ là vị giáo sĩ thần rượu này lại là người nước Ba Tư cấm rượu vì dân theo đạo Hồi. Tôi có dịp đi Iran (tên mới của Ba Tư) thì thấy các buổi tiệc tùng đều không có rượu. Người ta kể lại là Khayyam thường ngồi trên sân thượng uống rượu và đàm đạo với bạn bè. Có làn gió mạnh làm rơi vỡ vò rượu. Ông ngẫu hứng làm bài thơ:
Hỡi thượng đế, Người đã đập vỡ vò rượu của con
Đã đóng cửa niềm vui của con, Thượng đế hỡi!
Thế là con uống mà Người lại say
Chao ơi, Người có say chăng khi mồm con đầy đất?
Thơ Khayyam qua rượu, thể hiện một triết lý hưởng lạc và bi quan về số phận con người, ý nghĩa vũ trụ, nhiều khi đi ngược giáo lý chính thống của đạo Hồi.
Ở phương Tây, thơ chuốc rượu và ca tụng rượu xuất phát từ lễ hội thờ Thần Rượu cổ Hy Lạp là Diomisos, Thần Rượu cổ La Mã là Bacchus. Lễ hội gồm nhảy múa, ca hát, truy hoan… có những đám cuới đeo mặt nạ, là nguồn gốc thể loại bi kịch và hài kịch cổ Hy Lạp.
Khi tôi đi Thụy Điển tìm hiểu văn hoá Bắc Âu, được biết nhà thơ Bellman (thế kỷ 18) cũng trong truyền thống dùng thơ rượu. Ông không phải là nhà thơ vĩ đại của dân tộc nhưng khi tôi nói chuyện với ai, cũng thấy ông được mọi người ưa thích. Bài ca chuốc rượu theo kiểu ca tụng thần Rượu Bacchus là sở trường của Bellman. Ông sử dụng những khuôn sáo cổ điển của thể loại: Tình tri kỷ của các đệ tử rượu, thoát ly cái thống khổ của xã hội. Bacchus được tôn là lãnh chúa của Vương quốc Hạnh phúc. Trong say sưa, hưởng lạc khoảnh khắc, ông làm thơ rất sinh động, đưa vào thơ cả cảnh sinh hoạt hiện thực.
Người ta thường ví Bellman với nhà thơ Pháp thời Trung cổ là Villon. Hai nhà thơ chỉ giống nhau ở rượu chè lang bạt, nhưng tâm tình và rung cảm khác nhau. Villon đắm mình trong tội ác của giới trộm cướp, để rồi hối hận, sám hối trước Chúa, luyến tiếc cái trong sáng đã mất. Còn Bellman là viên chức tiểu tư sản vui đời, say sưa rượu chè ca hát, la cà quán rượu không hối tiếc. Nhảy múa, nhạc ca vui. Rượu là chất men những bài ca của Bellman. Rượu đây không có nghĩa hành lạc, chỉ khoảnh khắc cho khuây nỗi chán chường như trong văn học cổ La-Hy. Nó cũng không gợi lên cái say, các nhà thơ Ba Tư cảm thấy thú vui trong cay đắng hay do băn khoăn siêu hình. Rượu của Bellman bắt nguồn từ thần Rượu La-Hy nhập vào cuộc đời với vui buồn trần thế. Đọc thơ Bellman đừng quên đó là bài ca kèm nhạc, ngọc phải lắp vào nhẫn mới thấy hết giá trị.
Hàng năm ở Thuỵ Điển, ngày 26/7 là ngày Hội Bellman. Từ 1920, có giải thưởng Bellman cho nhà thơ xuất sắc.
Hữu Ngọc
Lại Rượu và Thơ
Trở về dĩ vãng, văng vẳng còn nghe câu hò say sưa:
Còn trời còn nước còn non,
Còn cô bán rượu, anh còn say sưa. Say sưa tối ngày là điều xấu, tục ngữ “rượu vào lời ra” ám chỉ cách giới phàm phu uống rượu và ca dao cũng đồng ý:
Ở đời chẳng biết sợ ai,
Sợ thằng say rượu… nói dai tối ngày. Đó là hình ảnh thường thấy trong xã hội nông nhiệp ngày xưa: sau mùa gặt lúa người xưa dành cả ba tháng ăn chơi, gồm cả tháng rượu chè:
Tháng Giêng là tháng ăn chơi,
Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba rượu chè… Đọc lại những bài thơ cũ, tôi nhớ đến nhà thơ Sông Đà Núi Tản trong bài Thơ Rượu. Say sưa của thi sĩ có vẻ nên thơ hơn nhiều
Thương ai cho bận lòng đây?
Cho vơi hũ rượu cho đầy túi thơ! Cảnh đời gió gió mưa mưa, Buồn trông, ta phải say sưa đỡ buồn. Rượu say thơ lại khơi nguồn, Nên thơ, rượu cũng thêm ngon giọng tình. Rượu thơ mình lại với mình, Khi say quên cả cái hình phù du. Trăm năm thơ túi rượu vò, Ngàn năm thi sĩ tửu đồ là ai?" (Tản Đà, Thơ Rượu) Thơ túi rượu bầu là hình ảnh của người đã thoát vòng danh lợi và là phần thưởng của kẻ đã trả xong nợ đời
Nợ tang bồng trang trắng, vỗ tay reo,
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu. (Chí làm trai - Nguyễn Công Trứ) và … Hẹn với lợi danh ba chén rượu, Vui cùng phong nguyệt một bầu thơ. (Thoát vòng danh lợi - Nguyễn Công Trứ) … Bầu giốc giang sơn say chấp ruợu Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ (Tức cảnh chiều thu - Bà Huyện Thanh Quan) (1) Nhưng thơ và rượu cũng là đề tài của người chờ thời hay của kẻ thất thời
Trời đất sinh ra rượu với thơ
Không thơ không rượu sống như thừa Công danh hai chữ mùi men nhạt Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ (Ngày xuân thơ rượu - Tản Đà) Hay là cái sự say sưa với rượu của kẻ bất cần đời?
… Say sưa nghĩ cũng hư đời,
Hư thì hư vậy, say thì cứ say, Đất say đất cũng lăn quay, Trời say mặt cũng đỏ gay ai cười? (Lại say - Tản Đà) Nhớ bạn, nhớ rượu, nhớ văn thơ nhưng không uống và viết vì chẳng có người tri kỷ để hiểu lòng mình:
Rượu ngon, không có bạn hiền,
Không mua, không phải không tiền không mua. Câu thơ nghĩ đắn đo không viết, Viết đưa ai, ai biết mà đưa. (Khóc bạn - Nguyễn Khuyến) Nhưng nếu gặp người tâm đầu, thì nếu có say, chẳng qua là vì tình nghĩa. Ca dao có giải thích tại sao phải uống để thật say để trọn tình với người đối ẩm
Say là say nghĩa say nhân
Say thơ Lý Bạch say đàn Bá Nha Trong cổ văn ngày xưa, “cầm kỳ thi tửu” là mấy món ăn chơi của người thanh lịch. Đàn và cờ, thơ và rượu bổ túc cho nhau
Cầm tứ tiêu nhiên, Kỳ tứ sảng,
Thi hoài lạc hĩ, Tửu hoài nồng. (Cầm kỳ thi tửu - Nguyễn Công Trứ) (2) Tiếng đàn hay, làm cờ sáng nước, Ý thơ vui, vì rượu say nồng. (Lý Hữu Phước dịch thơ)
Thi, cầm, kỳ, tửu cũng được nhắc đến trong Cung oán ngâm khúc
…Câu cẩm tú đàn anh họ Lý, Nét đan thanh bậc chị chàng Vương, Cờ tiên rượu thánh ai đang, Lưu Linh, Ðế Thích là làng tri âm. Cầm điếm nguyệt phỏng tầm Tư Mã, Ðịch lầu thu đường gã Tiêu Lang, Dẫu nghề tay múa miệng xang, Thiên tiên cũng xếp nghê thường trong trăng… (Cung oán ngâm khúc) Vũ Hoàng Chương mượn rượu để tiêu sầu, nhưng cái sầu càng sâu đậm thêm, có chép lại
Có ai say để quên sầu,
Lòng ta lảo đảo càng sâu vết buồn và… Em ơi lửa tắt bình khô rượu Ðời vắng em rồi say với ai ? (Ðời vắng em rồi - Vũ Hoàng Chương) Rượu là một trong ba cái lăng nhăng trong đời của Tú Xương:
Một trà, một rượu, một đàn bà,
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta. Chừa được thứ nào hay thứ đấy, Họa chăng chừa rượu với chừa trà. Nguyễn Du, trong Truyện Kiều, có đoạn tả đến Thúy Kiều mượn chén rượu để ôn lại quảng đời lưu lạc trôi nổi của mình
Khi chén rượu, khi cuộc cờ,
Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên.
Trong bài Đối tửu (3), ông có câu:
Sinh tiền bất tận tôn trung tửu Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi Sống, vò không dốc say bầu cạn Chết, mộ ai còn tưới rượu đây (Đông A dịch thơ)
o0o
Trên đây là những vần thơ từ bên xứ ta, nói đến rượu và thơ làm sao ta quên được ông tiên trong rượu (4) Lý Bạch bên Trung quốc. Trong Tương tiến tửu (5), cảm hứng trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ, uy nghi “Nước sông Hoàng Hà từ trời cao đổ xuống, chảy ra biển khơi cuồn cuộn chẳng quay về”, tác giả đã làm ra những dòng thơ hào hùng, phóng khoáng
Nhân sinh đắc ý tu tận hoan
Mạc sử kim tôn không đối nguyệt Đời người lúc thích cứ chơi, Dưới trăng đừng để chén vơi làm gì! (Lý Hữu Phước dịch thơ) và ông cao ngạo cho rằng:
Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh
Xưa nay lặng tiếng thánh hiền,
Chỉ người uống rượu… còn truyền lưu danh! (Lý Hữu Phước dịch thơ) Tiếng tăm lưu truyền của Lưu Linh, Lý Bạch Tửu trung tiên (4), có lẽ đã chứng minh được phần chí lý của hai câu này! Trong thơ họ Lý, ông viết rất nhiều về những đề tài khác nhau, nhưng cái tôi, trăng và rượu được nhắc lại nhiều lần. Ông có bốn bài Nguyệt hạ độc chước (6) (Dưới trăng một mình uống rượu). Trong trí tưởng tượng phong phú của tác giả: ánh trăng, ông và bóng hình của ông, tất cả là ba người – tạo thành một cuộc đối ẩm sống động, hào hứng:
Hoa gian nhất hồ tửu,
Độc chước vô tương thân. Cử bôi yêu minh nguyệt, Đối ảnh thành tam nhân. (Nguyệt hạ độc chước) Giữa hoa là rượu một bầu, Mình ta cứ rót chẳng đâu bạn hiền, Mời trăng cất chén triền miên, Nhìn vào bóng đó, ngả nghiêng ba người ! (Lý Hữu Phước dịch thơ)
Ông uống say, chẳng biết ngày đêm, đất trời:
Ðối tửu bất giác minh, Lạc hoa dinh ngã y. Túy khởi bộ khê nguyệt, Ðiểu hoàn nhân diệc hy. (Tự khiển - Lý Bạch) Cạn ly chẳng biết tối trời, Áo ta sương gió hoa rơi rớt đầy, Say qua khe suối trăng mây, Chim đàn về tổ, chốn này còn ai? (Lý Hữu Phước dịch thơ) Quanh năm suốt tháng, ông say bét không sót một ngày, và tự mình “kiểm điểm” trong bài Tặng nội:
Tam bách lục thập nhật,
Nhật nhật túy như nê. Tuy vi Lý Bạch phụ, Hà dị Thái Thường thê. Ba trăm sáu chục ngày trời, Ngày ngày say bét như đời con nê. Vợ chàng Lý Bạch ta kia, Như ai vợ Thái Thường xưa khác gì. (Tản Đà dịch thơ) Thái Thường là một ông quan nổi tiếng giữ mình nghiêm nghị, không dám gần vợ giữ chay tịnh để coi sóc chuyện thờ cúng. Còn Lý Bạch thì bị rượu hành quanh năm, nên có gần vợ cũng như thừa. Lý Bạch phụ và Thái Thường thê là hai người vợ của hai ông, cùng cảnh ngộ bị chồng bỏ bê, giống nhau ở điểm đó. Nhưng ông giải thích vì sao phải uống rượu
Xử thế nhược đại mộng,
Hồ vi lao kỳ sinh ? Sở dĩ chung nhật tuý, Ðồi nhiên ngọa tiền doanh… (Xuân nhật túy khởi ngôn chí) (7) Ðời như giấc mộng lớn Nhọc lòng mà làm chi ? Suốt ngày say túy lúy Trước hiên nằm li bì… (Trần Trọng San dịch thơ)
và cứ uống tiếp nữa, vì ông lý luận…
Thiên nhược bất ái tửu, Tửu tinh bất tại thiên. Địa nhược bất ái tửu, Địa ưng vô Tửu tuyền Thiên địa ký ái tửu Ái tửu bất quí thiên... ("Nguyệt hạ độc chước Kỳ II)
Nếu trời không thích rượu
Sao rượu ở chi trời ? Nếu đất không thích rượu, Suối rượu ở chi đời ? Trời đất đã thích rượu, Thích rượu không thẹn trời... (Trần Trọng San dịch thơ) Trong cái vui với rượu, đôi lúc có cái buồn vời vợi. Lý Trích Tiên mượn rượu để tiêu sầu nhưng lắm lúc cái sầu vẫn triền miên không dứt được: “Rút đao chém nước, nước vẫn chảy. Nâng chén tiêu sầu, sầu càng sầu”.
Trừu đao đoạn thủy, thủy cánh lưu
Cử bôi tiêu sầu, sầu cánh sầu (Nguyệt hạ độc chước IV)
Rút gươm chém nước, nước trôi,
Giải sầu cạn chén; lòng buồn, buồn thêm. (Lý Hữu Phước dịch thơ) Hai câu cuối trong bài Nguyệt hạ độc Chước “Vĩnh kết vô tình du, Tương kỳ mạc Vân Hán”, đã được chuyển ngữ thành “Forever committed to carefree play, we’ll all meet again in the Milky Way” [CTDHM]. Hai câu này đã diễn tả phù hợp với cuộc đời của Lý tiên sinh
Suốt đời rượu tiệc cuồng ngông,
Kiếp sau uống tiếp… trên sông Ngân Hà. (Lý Hữu Phước dịch thơ) Cả cuộc đời họ Lý là một cuộc rong chơi lớn: Ông uống rượu từ lúc thất thời ngao du lang thang trong thiên hạ, lại uống nhiều thêm lúc được ân sủng của Đường Minh Hoàng tại triều đình, và đến cuối đời mình - huyền thoại để lại - ông uống say, nhảy vào hồ, ôm bắt bóng trăng rồi chết đuối. Một vầng trăng mà trong rượu và thơ, ông theo đuổi cả đời mà không sao sờ tay bắt được… Có lẽ cái chết là bắt đầu của cuộc hành trình tửu du vô tận của ông ở bên kia thế giới. Từ xưa đến nay, thật không có cuộc đời nào đầy thơ và rượu như của ông !
o0o
Viết đến đây, tôi nhớ lại chuyện đời xưa trong sách có liên quan với rượu và chơi chữ: “Thuở người Pháp còn ở Sài Gòn… tại mé sông Sài Gòn, ở sát cạnh sở Ba Son, có một quán bán rượu chát chủ quán là một võ quan Thủy binh chơi chữ, hiệu quán vỏn vẹn đề mấy số thật lớn, trên bảng: 0 - 20 - 100 - 0 và phải đọc là 'Au vin sans eau' (quán bán rượu không pha nước)” [NĐCL]. Phải chăng chính người Chợ Lớn năm xưa đã pha rượu với nước để làm giàu, tạo thành cách uống rượu lạ lùng của dân Sài Gòn, nên mới có cái quảng cáo chơi chữ nên thơ! Mấy chục năm trước, còn nhớ cả đường Lý Nam Đế (cũ) ở Chợ Lớn, phụ tùng xe đạp được sản xuất ở đây và đóng dòng chữ “Fabriqué en France” chứ không xài “Made in Japan” vì đồ Nhật còn chưa tốt…
o0o
Câu tục ngữ “rượu vào lời ra” chỉ cái xấu của những người uống rượu nói dai, riêng đối với người có nợ với văn chương thì rượu là nguồn cảm hứng bao la của bao nhiêu sáng tác văn học rực rỡ. Đường thi có câu đấu tửu thi bách thiên (4) - rượu vào hàng trăm bài thơ ra. Đọc và chép lại những vần thơ cũ trích dẫn ở trên, tôi nghĩ thơ cũng giống như rượu: càng lâu năm thì càng quý. Quan hệ mật thiết giữa rượu và thơ là như hình với bóng – cùng nhau trưởng thành già dặn qua thời gian, và tôi rất tán thành về sự so sánh giữa rượu và thơ của Ưng Bình Thúc Giạ Thị:
Rượu có mùi thơm nên uống mãi,
Thơ là thuốc bổ cứ ngâm hoài… Lý Hữu Phước biên soạn Sydney, mùa Giáng Sinh 2005. Tài liệu tham khảo
Chú thích & Phụ lục (1) Tức cảnh chiều thu - Bà Huyện Thanh Quan
Thánh thót tầu tiêu mấy hạt mưa
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ Xanh om cổ thụ tròn xoe tán Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ Bầu giốc giang sơn say chấp ruợu Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ Cho hay cảnh cũng ưa nguời nhỉ Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ
(2) Cầm kỳ thi tửu - Nguyễn Công Trứ
Ðường ăn chơi mỗi vẻ mỗi hay,
Ðàn năm cung réo rắt tính tình dây, Cờ đôi nước rập rình xe ngựa đó. Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ, Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà. Thú xuất trần, tiên vẫn là ta, Sánh Hoàng Thạch, Xích Tùng, ờ cũng đáng ! Cầm tứ tiêu nhiên, kỳ tứ sảng, Thi hoài lạc hĩ, tửu hoài nồng. Một chữ nhàn giá lại đáng muôn chung Người ở thế dẫu trăm năm là mấy. Sách có chữ "nhân sinh thích chí" Ðem ngàn vàng chác lấy chuyện cười, Chơi cho lịch mới là chơi, Chơi cho đài các, cho người biết tay. Tài tình dễ mấy xưa nay.
(3) Đối tửu - Nguyễn Du
(4) Đời Ðường, bốn thi sĩ nổi tiếng được đặt những biệt danh:
(5) Tương Tiến Tửu - Lý Bạch
(6) Nguyệt hạ độc chước - Lý Bạch
(7) Xuân nhật túy khởi ngôn chí - Lý Bạch
|
Toast :
Truyện cười, câu nói hài hước về rượu bia, thơ hay về rượu
1. Rượu và người
- Người cầm chiếc li lắc lư trong tay run vì say rượu, bạn biết họ uống cái gì không ? Họ uống nước mắt, máu huyết, đời sống của vợ con họ đấy.
- Sóng nước mắt người đàn bà đẹp bao giờ cũng có tác dụng như một ly rượu ngon mà người đàn ông là kẻ bợm rượu
- Còn bạc còn tiền còn đệ tử, hết cơm hết rượu hết ông tôi
- Người chết đuối trong ly rượu đông hơn người chết đuối dưới sông
2. Thơ về rượu
Một trà, một rượu, một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quậy ta
Chừa được cái gì hay cái nấy
Có chăng chừa rượu với chừa trà .
Tay cầm bầu rượu nắm nem
Màng vui quên hết lời em dặn dò
Còn trời còn nước còn non
Còn cô bán rượu anh còn say sưa .
Tay tiên rót chén rượu đào
Đổ đi thì tiếc uống vào thì say
3. Tục ngữ về rượu
Nam vô tửu như kỳ vô phong (Đàn ông không rượu như cờ không gió)
Tửu nhập tâm như hổ nhập lâm (Rượu vào lòng như cọp vào rừng)
Tửu nhập ngôn xuất (Rượu vào lời ra)
4. Rựợu bất tử
Vua Ngũ Đế ở thời nhà Hán có lần được biếu một bình rượu bất tử. Một quan đại thần đã uống trộm một ít. Nhà vua bắt được và nổi giận sai lính đem đại thần đi chém đầu. Nhưng viên quan đại thần liền nói:
- Muôn tâu bệ hạ, thứ rượu mà kẻ hạ thần uống là thứ rượu bất tử. Bởi vậy không thể giết được kẻ đại thần. Còn nếu như thần bị giết chết thì đó sẽ là bằng chứng nói lên rằng thứ rượu bất tử này là rượu rởm.
5. Ngạn ngữ về rượu
Ngạn ngữ Anh: Rượu là kẻ phản bội: trước là bạn sau là thù
Ngạn ngữ Hy Lạp: Trong rượu có sự thật
Ngạn ngữ Hung Ga Ri: Điên, nghèo và say rượu, ba thứ này chẳng có thứ khăn nào che được
Ngạn ngữ An Độ: Hãy đứng xa con voi bảy bước, cách con trâu mười bước và cách thằng say ba mươi bước
Ngạn ngữ Tây Ban Nha: Thêm nước vào rượu, ta làm hư rượu, không thêm nước vào rượu, ta làm hư ta.
Ngạn ngữ Nhật Bản:
Chén rượu thứ nhất: Người uống rượu
Chén rượu thứ hai: Rượu uống rượu
Chén rượu thứ ba: Rượu uống người
Kẻ uống, không biết tác hại của rượu, người không uống, chẳng biết cái lợi của rượu.
Ngạn ngữ Nga: Đối với người say rượu, nước biển chỉ cao tới đầu gối
Ngạn ngữ Thổ Nhĩ Kỳ: Rượu ngon và gái đẹp là hai thứ thuốc độc hoà hợp với nhau.
6. Rượu vang dở (kém chất lượng)
Hai anh bạn ngồi tâm sự, anh này hỏi anh kia:
- Này cậu, cậu có thấy một số nhà văn bình thường đã trở thành nhà phê bình nổi tiếng không ?
Anh kia đáp:
- Đúng đấy! Tớ có biết chuyện đó. Theo tớ điều đó là bình thường vì đôi khi rượu vang dở, kém chất lượng lại làm được thành dấm rất ngon.
7. Rượu làm bay hơi nhân cách
Trong lớp học môn hoá học, thầy giáo hỏi một học trò:
- Em hãy cho thầy biết tính chất hoá học của rượu êtylic?
Học trò đáp:
- Thưa thầy! Rượu là một chất không màu, nhưng làm đỏ mặt người. Nó không tự cháy nhưng làm cháy túi tiền, khi tác dụng với món “mộc tồn” (thịt chó) tạo chất hung hăng và làm bay hơi nhân cách ạ.
8. Điều cần biết về rượu
Trong lớp bồi dưỡng các học viên tư vấn hôn nhân gia đình, thầy giáo nói về tác hại của rượu:
- Các anh nên nhớ, rượu là nguyên nhân dẫn đến sự chia ly của biết bao cặp vợ chồng....
Một học viên hỏi:
- Thưa thầy ! Xin thầy cho biết cụ thể hơn, rằng cần phải uống bao nhiêu rượu để có được sự chia ly này !
9. Đố vui
Trong buổi liên hoan cuối năm của một cơ quan nọ, có tiết mục "đố vui", một anh chàng nhận được câu hỏi:
"Anh hãy kể tên những chất có trong những sản phẩm gây kích thích làm cho con người ta có cảm giác từ khoái phát triển thành nghiện. Anh hãy liên hệ với câu thơ của Tú Xương nói về tác hại của trà, rượu... ".
Anh chàng suy nghĩ một lúc rồi trả lời:
- Những chất có trong những sản phẩm gây kích thích làm cho con người ta có cảm giác từ khoái phát triển thành nghiện đó là: chất Andehit có trong rượu, nicotin có trong thuốc lá, tanin có trong chè (trà), cafein có trong cà phê, heroin và mocfin có trong thuốc phiện...
- Câu thơ của Tú Xương nói về tác hại của trà, rượu ... là:
"Một trà một rượu, một đàn bàBa cái lăng nhăng nó hại ta
Trừ được thứ nào hay thứ đó
Họa chăng chỉ trừ được rượu và trà"
Cả hội trường vỗ tay rào rào vì câu trả lời đúng và hay quá... Chàng trai được Ban tổ chức thưởng cho một chiếc áo sơ mi rất đẹp.
Phạm Đình Điểu (Sưu tầm và biên soạn)
Tổ Tiên Ơn Đức Sinh Ra Rượu
Con Cháu Thảo Hiền Mặc Sức Say
Nào anh em ta cùng vào nhậu
Cho đời bớt khổ bớt đau thương
Cuộc đời có bao nhiêu là bội bạc
Chỉ có rượu là bạn của ta
Khi nào đau khổ hay buồn tủi
Hãy nhớ đến rượu đến anh em
Nhậu cùng anh em là tất cả
Chẳng màn thế sự cả đời trai
trăm năm bia đá cũng mòn
trăm năm bia rươu vẫn còn trơ trơ
***************************
Uống đi em cho đời bớt khổ
Thật ra thì có bổ gì đâu em
Em là nợ mà vợ là kẻ thù
Còn tình yêu là mung mù sương gió
Chỉ có rượu và thịt chó muôn năm
************************
Thân trai cũng mộng tưởng lắm thay
Rượu vào trời đất cứ quay quay
Tưởng đâu buồn ấy chừng bay hết
Tỉnh ra mới thấu nỗi đau này
*****************
Đời trai chỉ được cái lai nhai,
Tâm tư thế sự đúng sai chẳng màng !
Một bên rượu một bên nàng,
Bên nào cũng nặng...........bỏ nàng nâng ly!!!
*************************
________________________________________
Con bò thì có kì U
Con trai k riệu thì "ngu" hơn bò
....................................
Trên linh sàng hai hàng riệu bọt
Dưới linh sàng con cháu ọc ọc say sưa
________________________________________
Vợ cầm Chén giơ lên
Ta cầm chai ta đập lại
Trong cuộc chiến điêu tàn
Vợ là vợ, mà ta là ta ;))
Khi say một chút cũng say
Khi nên tình nghĩa một ngày cũng nên
Trời đất sinh ra rượu với thơ
Không thơ không rượu sống như thừa
Say đi em, say đi em
Say cho lơi lã ánh đèn
Say cho quên hết ai hèn ai vinh
Say cho cung bậc ngã nghiêng
Say cho quên hết tiền tình thế gian
Thế sự đua nhau nói tỉnh say
Biết ai là tỉnh biết ai say
Say cùng thơ rượu là say tỉnh
Tỉnh để bon chen ấy tỉnh - Say
Mấy kẻ nên say đều có tỉnh
Làm người có tỉnh mới nên say
Cái say ai cũng biết say là thế
Mới biết trần gian kẻ tỉnh - say
Thế sự đua nhau nói Dại - Khôn
Biết rằng ai dại biết ai không
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người không người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc - Đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến gốc cây ta cứ nhấp
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao!!!!!
---ST---
________________________________________
Một trà, Một Rượu, Một Đàn bà.
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta.
Chừa được cái nào hay cái nấy.
Có chăng chừa rượu với chừa trà
UỐNG RƯỢU ĐÊM TRĂNGChú Cuội ngồi gốc cây đaTúi thơ hũ rượu khề khà cho vui Say rồi Cuội bảo Nga ơi! Cùng nhau hạ thế vui đời say sưa Rượu nếp pha với nước dừa Đó là loại rượu thượng thừa miền tây Cuội ơi hãy ghé vào đây Cùng ta say xỉn cho ngày trôi qua Ôm chi cái gốc đa già Nghìn năm chẳng biết gì là thú say Khi say nghe thấy hay hay Tản Đà mới nói đỏ ray ông trời Rượu vào thơ mới ra lời Không rượu thì chịu một lời cũng không
________________________________________
Men rượu cay đong đầy trong nỗi nhớ
Tình có say không Không vớt vát mỗi ngày
Nâng chén rượu thấy đời u mê tăm tối
Ngước lên trơi ta thấy vẫn còn ta
p/s : bon chen mần bai thơ ni ko biết có chấp nhận đươc ko biết
________________________________________
Rượu gặp tri âm ngàn chén thiếu
Tiếng không đồng điệu nửa câu thừa
________________________________________
Tổ Tiên Ơn Đức Sinh Ra Rượu
Con Cháu Thảo Hiền Mặc Sức Say
Nào anh em ta cùng vào nhậu
Cho đời bớt khổ bớt đau thương
Cuộc đời có bao nhiêu là bội bạc
Chỉ có rượu là bạn của ta
Khi nào đau khổ hay buồn tủi
Hãy nhớ đến rượu đến anh em
Nhậu cùng anh em là tất cả
Chẳng màn thế sự cả đời trai
trăm năm bia đá cũng mòn
trăm năm bia rươu vẫn còn trơ trơ
________________________________________
Khi say một chút cũng say
Khi nên tình nghĩa một ngày cũng nên
Trời đất sinh ra rượu với thơ
Không thơ không rượu sống như thừa
Say đi em, say đi em
Say cho lơi lã ánh đèn
Say cho quên hết ai hèn ai vinh
Say cho cung bậc ngã nghiêng
Say cho quên hết tiền tình thế gian
Thế sự đua nhau nói tỉnh say
Biết ai là tỉnh biết ai say
Say cùng thơ rượu là say tỉnh
Tỉnh để bon chen ấy tỉnh - Say
Mấy kẻ nên say đều có tỉnh
Làm người có tỉnh mới nên say
Cái say ai cũng biết say là thế
Mới biết trần gian kẻ tỉnh - say
Thế sự đua nhau nói Dại - Khôn
Biết rằng ai dại biết ai không
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người không người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc - Đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến gốc cây ta cứ nhấp
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao!!!!!
________________________________________
Rượu Rượu Rượu ... ThôI Thôi thôi . .
Quỳnh Tương khương dụng khắc mùi hôi
Rượu phàm hay loạn tánh
Men độc khó nhường lời
Thân bởi Men mà lụy
Danh tại Rượu mà trôi
Quan võ ghét rượu ngon rất phải ?
Ngưồi đời ưa Men độc Than ÔI !
********************************
Đầu tuần Rượu Chuối lai rai
Giữa tuần chí ít vài chai Vód kà
Cuối tuần Rượu Trắng bê tha
Đầu tuần ta lại hát ca tửu phùng
________________________________________
Nâng ly không uống hóa xỏ lá
Uống nhiều quá hóa ta say!
________________________________________
còn tiền còn rượu ta còn uống
hết tiền hết rược ta uống bia
lúc ra đi không một người đưa tiễn
lúc ra về bảy tám thằng khiêng
trên quan tài khắc 8 chữ thiêng liêng
Tổ Quốc Cắt Cơm Gia Đình Thương Tiếc
________________________________________
Có những lúc tưởng không buồn được nữa
Ta vục mình vào chén rượu ngả nghiêng
Sóng sánh cay
Toé tràn qua khe mắt
Cạn rồi.
Thời gian không ngừng trôi
Sao tĩnh lại?
Mặc ta nhìn vào khoảng trống trước,sau
Nhạt nhoà xa vắng.
Mi mắt căng trĩu nặng
Ập vào.
Cồn cào như thể đói
Chẳng buồn ăn.
Nhấc chén rượu lên
Hơi men bốc bừng trên má
Tưởng như chừng uống cả
Một đời...
Buông mình rơi
Mặc không gian vô nghĩa
Tan dần.
Buốt lạnh bàn chân
Mà gan ruột
Như từng phần đang cháy.
Hồn sao muốn nhảy
Khỏi chính mình.
Bỗng nhìn lặng thinh
Hình như mình hoá đá
Nhớ ai mà rất lạ
Tự dưng buồn!
________________________________________
Hiu hiu gió thổi đầu non
Mấy thằng uống rượu là con ngọc hoàng
Ngọc hoàng ngự ở ngai vàng
Thấy con uống rượu tưởng rằng con chơi
Ai dè con uống con rơi xuống sình ..!
*************
Ai bảo nhậu lai rai là khổ?
Tôi mơ màng, men rượu bốc lên cao.
Có những ngày say xỉn té cầu ao,
Vợ bắt được, chưa mắng câu nào đã khóc.
Cô bé nhà bên nhìn tôi cười khúc khích.
Chị giận anh rồi, tối sang ngủ với em?
Tết Xuân - Thuy Nga Paris By Night Full Programs :-VIEW :-Em Champagne, Má Đỏ Môi Mềm |
No comments:
Post a Comment