Làng Tôi (Chung Quân)_Ca Sĩ : Như Quỳnh
Giai Thoại về Tác Giả Nhạc Phẩm “Làng Tôi” - Phan Văn
-MOVIE:Kiếp Hoa - Phim Việt Nam đầu tiên được thu tiếng(1953)
“Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh
Có sông sâu lơ lững vờn quanh...”
I - Ve
- Dung Vy Catholic Church__Street View - Apr 2017:
-Mời Xem :
Đình làng Lương_Communal House of Luong Village. Di tích lịch sử văn hoá- Đình Làng Lương (Thôn Lương)_.
XEM :Bản đồ xã Tri Phương, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (Wikimapia)
Thuở xa xưa, khi đường xá còn trong tình trạng sơ khai, Ve là một vùng sâu, vùng xa (ve kêu vượn hót) hẻo lánh, nằm lọt thỏm giữa cánh đồng khá rộng lớn, có vị trí tự nhiên trải dài từ chân núi Chè ở phía Bắc qua Đồng Lạng, Ve... đến Trung Mầu, Phù Đổng ở phía Nam. Phía Đông là Cao Đình, Đền Xộp và phía Tây giáp Đại Vy... chợ Giầu bên quốc lộ 1. Nếu kẻ một trục thẳng đứng (tung) hướng Bắc-Nam từ núi Chè xuống Phù Đổng và hướng Đông-Tây từ Cao Đình đến quốc lộ 1 (hoành) thì Ve nằm ở vùng giữa hai trục. Nói một cách hình tượng. Ve là cái túi, cái rốn của vùng này.
Khi tổ tiên chúng ta tới đây lập nghiệp khung cảnh còn hoang sơ, cây cối rậm rịt. Nơi đây qui tụ nhiều muông chim hoang dã, trong đó có giống ve sầu, một loài sâu có cánh chuyên sống trên các ngọn cây cao hoặc bụi rậm. Hàng năm, cứ vào đầu mùa Hè, chúng cất cao “tiếng gọi tình thương” mở đầu thời kỳ “vui vẻ” để duy trì nòi giống. Cuộc tình ầm ĩ này vốn kéo dài đến ngày nay, dầu chỉ là rơi rớt, dư âm của một thời vang bóng.
Phải chăng tiếng ve-ve inh ỏi suốt mùa Hè đã khiến cha ông chúng ta, vốn đơn sơ chất phác lấy nó đặt tên cho nơi mình sinh sống là xóm Ve, làng Ve ?
Đây chỉ là giả thiết. Mong các bạn và các bậc cao tuổi tại quê nhà tìm hiểu, xác minh.
Nhân tiện xin mở rộng vấn đề: xung quanh Ve còn nhiều địa danh khác, cũng cần được tìm hiểu như Đền Vua, Mả Chúa, Đồng Thần... đền thờ vua nào, thời nào ? Tại sao nay không còn dấu tích ?Mả Chúa, Đồng Thần cũng vậy. Khi tôi có trí khôn, những địa danh này chỉ là những bãi đất hoang, không đền miếu, không mồ mả, không trồng trọt, trừ Đồng Thần. Tại sao vậy ?
Tuy là cái rốn của vùng, Ve có lợi thế về giao thông thủy bộ.
Thật vậy, con đường độc đạo liên thôn, liên xã chạy qua giữa làng. Do đó, các thôn phía Đông như Cao Đình, xóm Sen, Đinh Thôn muốn giao tiếp với các thôn ở phía Tây như Đại Vy, Đại Thượng, Húc...đều phải qua Ve. Ngược lại cũng thế.
Về đường thủy, Ve nằm ngay bên hữu ngạn nhánh sông nhỏ thuộc hệ thống sông Hồng, là tuyến giao lưu theo chiều hướng Bắc-Nam mà cầu Ve là bến đò trung điểm. Dân miệt ruộng muốn “lên núi” bằng đường sông, và dân miền núi như Chè, Đông Lâu, Móng muốn xuống đồng bằng đều phải qua thủy lộ này.
Ngoài lợi thế về giao thông, Ve còn có ưu thế về nông, thủy sản và chăn nuôi gia cầm, gia súc.
Đồng ruộng ở Ve khá rộng, thổ nhưỡng mầu mỡ và đa dạng. Do đó cấy được nhiều loại lúa: Lúa Chiêm, lúa mùa, lúa nếp, tám thơm... Ngoài lúa là nguồn lợi chính còn các hoa màu phụ như sắn (mì), ngô (bắp), khoai...
Chẳng phải là cường điệu khi quả quyết nguồn thủy sản ở Ve đa dạng và phong phú nhất vùng. Được vậy là nhờ hai yếu tố: hệ thống ao làng tương đối nhiều và nhất là sự hiện diện của con sông cạnh làng.
Địa thế ở Ve thấp nên khi làm nhà, bà con trong một xóm hay một chi họ, có khi là vài anh em trong gia đình, cũng dành ra một vài sào (công) để đào đấu, vừa lấy đất nâng cao nền làm sân, nền nhà chống úng lụt, vừa làm ao nuôi cá, thả bèo, rau muống, rau rút. Do đó trong làng có nhiều ao. Hàng năm, hệ thống ao làng cung cấp một lượng cua, cá, ếch tuy nhỏ nhưng cũng góp phần vào sinh kế thôn dân. Trong khi rau muống và bèo các loại (bèo tây, bèo tấm, bèo cái) là nguồn thực phẩm giúp phát triển chăn nuôi gia cầm, gia súc.
Theo thiển ý, Cầu Ve hiện nay đúng hơn chỉ là một cống thoát nước. Nhưng trong phương ngữ còn tồn tại cụm từ CỐNG CẦU VE, chứng tỏ xưa kia nơi đây có một cây cầu bằng tre hoặc gỗ, gọi là Cầu Ve (cầu của Xóm Ve). Sau này, khi ông cha ta be đập, đắp bờ từ hai bên lấn ra giữa lòng sông và xây cống thoát nước. Cống ấy gọi là Cống Cầu Ve.
Trải qua thời gian và theo đặc tính chung của ngôn ngữ khắp thế giới là tĩnh lược, rút gọn, đơn giản hóa (kiểu như dân miền quê = dân quê) nên từ “cống” mất dần theo năm tháng, cuối cùng chỉ còn gọi tắt là Cầu Ve, dù chiếc cầu xưa kia không còn nữa.
Cầu Ve là tụ điểm ưa thích của mọi lứa tuổi. Những ngày đẹp trời, chiều chiều, quý ông ra đây hóng mát ngắm cảnh hoàng hôn hay mơ màng dõi theo những cánh cò trắng, từ cánh đồng phía hạ nguồn đua nhau về tổ trên lũy tre làng, quả là thú vị. Những đêm trăng thanh gió mát, nhất là về tháng 7, tháng 8, vừa ngắm trăng, vừa kéo vó, hoặc lơ đãng thả hồn theo nhịp gõ cành cành vào mạn thuyền của các ngư dân lưới cá, cũng là cách thư giãn vô cùng công hiệu sau một ngày lao động mệt nhọc.
Các trai làng thường ra đây tắm, vừa bi bô tán tỉnh, vừa “rửa mắt”, ngắm những cô gái giặt chiếu, giũ lụa, hong tóc... Đây là một bức tranh đồng quê rất trữ tình.
Về mùa nước lớn (tháng 7-8) Cầu Ve đặc biệt nhộn nhịp cảnh trên bến dưới thuyền, vì đoạn bờ ở đầu cầu phía Đại Vy năm nào cũng sạt lở, nước chảy phăng phăng.
Những người gồng gánh nặng hoặc nhát, không biết bơi đều phải qua sông lụy đò. Đó là đò ngang đưa khách sang sông, chuyển dịch như con thoi giữa hai bờ. Đò dọc chở khách đường dài, xuôi ngược giữa Cầu Ve và Đồng Lạng.
Ngoài chức năng bến khách, Cầu Ve còn là bến trung chuyển lúa. Các thuyền lúa từ đồng dưới (Tào Khê) tập kết lúa về đây, chất thành từng đống để người thân và thợ ra gánh lúa về nhà.
Ngày mùa, tùy theo thời vụ, từ mờ sáng, thợ cấy, thợ gặt từ xóm Gạ, Đại Vy, Húc... tập trung trước cổng làng, chờ dân Ve ra mướn vào làm.
Vì là bến đò khách, bến lúa và chợ lao động nên cũng có những dịch vụ ăn theo như hàng quà, hàng bánh và tất nhiên không thể thiếu gánh nước chè xanh hay nước vối mà chủ thường là một cô thôn nữ xinh xinh đã đi vào thi ca.
Cuối cùng, nói đến Cầu Ve là phải nghĩ ngay đến “đệ nhất thú” trên đời – Thứ nhất là tắm sông.
Tắm sông thú lắm, vì thỏa sức vùng vẫy giữa cảnh trên trời, dưới nước, vô cùng thoáng đãng, không bị gò bó như tắm ao, tắm giếng.
Nhưng tắm sông Cầu Ve còn thú hơn nhiều, vì nước Cầu Ve vừa trong, vừa sạch, lại mát nữa! Trong – sạch – mát mẻ vì trước khi về đến Cầu Ve, nước sông phải qua một hệ thống lọc tự nhiên. Đó là hệ rễ cây, rễ bèo dầy đặc ở phía thượng nguồn, nhất là đoạn từ Đồng Thần đến hết Xóm Gạ.
Tắm Cầu Ve còn hào hứng vô cùng vì các cuộc thi bơi, thi lặn, đuổi bắt và dìm nhau chí chết. Cuộc thi nào có sự chứng kiến và cổ vũ của mấy “em” cũng đều sôi động hơn, ác liệt hơn vì “anh” nào cũng muốn trổ tài để lấy le, lấy lòng.
Với những ưu điểm trên, nước sông Cầu Ve có sức quyến rũ, mê hoặc tới mức
Quan trọng hơn cả là nguồn thủy sản khai thác từ đồng ruộng và nhất là từ con sông cạnh làng. Đó là con ngòi – như quen gọi – bắt nguồn từ đầm Đại Trung, chẩy qua Ve và xóm Gạ... xuống khỏi Đầm Mậy rồi chuyển hướng về Dền Xộp trước khi đổ vào sông Lục Đầu.
Mùa mưa, tôm cá... xuôi theo dòng nước về ngòi Cầu Ve rất nhiều, vì đoạn ngòi này có hệ sinh thái thích hợp: cây cối hai bên bờ tạo bóng râm, mặt sông có nhiều bèo tiện trú ẩn, rễ cây và rễ bèo lưu giữ nhiều loại vi sinh vật (do nước mưa đem từ đồng ruộng xuống) là mồi cho cá, tôm, cua, ốc, ếch, nghêu, sò...
Tùy theo con nước, thôn dân thu gom nguồn thủy sản bằng cách: cắm đăng, kéo vó, đặt lờ, chài lưới. Mùa nước cạn thì đánh quấy, tát vét...
Tóm lại, nhờ thóc lúa và nông thủy sản khá dồi dào, dân Ve có cuộc sống tương đối ổn định, nói chung, không phải ra ngoài làm thuê làm mướn. Trái lại, Ve vốn là nơi thu hút khá nhiều lao động trong vùng.
Trên đây là đôi nét về danh xưng, vị trí, địa thế và cảnh quan quê hương, nơi tôi đã trải qua thời thơ ấu đầy ắp kỷ niệm, và đã từ đó ra đi theo sự đẩy đưa của vận nước, của lịch sử, mà hành trang chỉ là quãng đời nhỏ dại và nỗi nhớ quê, nhớ tổ.
Chợ Ve tọa lạc trên mặt bằng ở giữa làng, nơi tiếp giáp 2 thôn và ngay bên đường chính liên thôn, liên xã.
Đặc điểm của nền kinh tế ngày xưa là tự cung, tự tiêu. Do đó, buổi sơ khai, sinh hoạt chợ búa ở đây giống như bất kỳ nơi nào khác, là trao đổi hiện vật: Đổi trứng lấy cá, đổi gà lấy gạo, đổi cua lấy sò chẳng hạn...
Vào khoảng cuối thế kỷ 18 (theo phỏng đoán) Chợ Ve đã khá khang trang: Có nhà lồng chợ mái ngói, có hàng ngang dãy dọc với các khu chuyên doanh, hàng thịt, hàng gạo, hàng rau qủa v.v... cạnh chợ còn có lò rèn để chế tác và sửa chữa nông cụ như liềm, hái, cày, bừa, dao, kéo v.v...
Đến giai đoạn Ve bị tạm chiếm (1949-1954) tuy ngắn ngủi, chợ Ve phát triển thêm bước mới: Bên cạnh những nông thổ sản cổ truyền còn có những mặt hàng ngoại xa xỉ như bia, cam, son phấn, nước hoa.
Thế mới hay “ Thuở trời đất nổi cơn gió bụi” mà đến cả cái chợ cũng phải long đong theo vận nước!
Những đêm sáng trăng, đặc biệt là trăng rằm tháng 8 (Trung Thu) thì dù ma có xuất hiện trên cây đa cạnh chợ cũng chả ngăn cản được chúng tôi chơi trò đúc chuông, hát ghẹo:
Chả sợ! Hôm sau vẫn chứng nào, tật nấy:
Ôi sao mà dơ bẩn quá! Xúc phạm đến thế, không thể tha thứ được!
Bọn tóc quả đào đâu phải vừa. Chúng trả đũa ngay! Hạ nhục cánh mày râu đến mức chả còn gì là nhân phẩm, nhân vị:
Vậy là chúng tôi đã bị hóa kiếp. Chưa hả giận, chúng bồi thêm:
Trời! Nhét “chỗ đó” rồi vãi ra bừa bãi như thế thì... mất vệ sinh quá. Xin can, chớ giỡn mặt với nhà cầm đồ!
Những kỷ niệm thời thơ ấu ấy đã “mã hóa” trong máu thịt, in sâu vào ký ức chúng tôi, đẹp như câu chuyện thần tiên bà kể cháu nghe, không bao giờ quên được, như ta không thể quên người ta yêu mến.
Quê hương là người tình
Chẳng biết từ bao giờ và ai đã ví von như vậy. Nhưng ai đã có một thời gắn bó với quê hương, khi phải xa nơi chôn nhau cắt rốn cũng đều nhận thấy câu ví đã lột tả hết tâm tư, tình cả của người xa xứ. Quê hương sao mà thân thương, sao mà cuốn hút đến thế. Những cảnh vật ngỡ như tầm thường bỗng trở nên sinh động, như có ai thổi linh hồn vào vậy. Từ bờ tre, bụi ruối, cây đa, giếng nước đến nét cong của mái đình, vẻ uy nghi của giáo đường... đều như có sức sống nhiệm màu, “hút” chặt tâm tư, tình cảm kẻ tha hương. Theo tháng năm và tùy theo tâm trạng mỗi lúc, hình ảnh người-tình-quê-hương khi ẩn, khi hiện, lúc tỏ, lúc mờ, nhưng không bao giờ “chết”.
Quê hương là người tình bất diệt. Khẳng định như thế để không vong thân, mất gốc. Và để cùng nhau “giữ thơm quê Mẹ”.
Sàigòn
- |
- Địa điểm: Đồi Lim, thuộc thị trấn Lim, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội 18km.
Đối tượng suy tôn: Vua Bà và ông Hiếu Trung Hầu, tương truyền là hai vị tổ của các làn điệu dân ca Quan họ
Đặc điểm: Hát Quan họ trên đồi, trên thuyền, tại nhà.
Hội Lim là lễ hội văn hoá nghệ thuật đặc sắc của những làng quê quan họ, hình thành từ xa xưa. Ngày hội đã thu hút nhiều thành phần, lứa tuổi từ khắp nơi về trẩy hội vui xuân, trong đó phần đông là trai thanh gái lịch. Đến hẹn lại lên, họ đến với nhau để ca hát, với người lớn tuổi thì đến hội là dịp tìm về tuổi xuân, với nam thanh nữ tú thì hội là dịp tìm bạn, tìm duyên. Sự kiện văn hoá độc đáo này trở thành tài sản vô giá trong kho tàng văn hoá dân gian Việt
Cũng như các lễ hội truyền thống khác, hội Lim cũng có những hoạt động nghi lễ trang nghiêm, thành kính nhằm tôn vinh công đức các vị thần như lễ rước, lễ tế hay các trò hội dân gian mua vui, thi tài. Sáng sớm ngày 13 là lễ rước kinh từ chùa Trũng tới chùa Hồng Ân, sau những nghi thức tế lễ, đoàn rước đón nước thiêng từ chùa Hồng Ân trở về chùa Trũng. Kết thúc lễ rước, vào lễ khai hội.
Nhưng đến Hội Lim khách trảy hội đều muốn xem, nghe và được hát quan họ với các liền anh liền chị, đó cũng là đặc trưng cơ bản nhất của lễ hội này.
Quan họ là loại dân ca đặc sắc của vùng Kinh Bắc xưa (nay là tỉnh Bắc Ninh). Dân ca quan họ nổi tiếng không chỉ ở lời ca trữ tình, nồng nàn yêu cuộc sống và tình yêu đôi lứa, hay với 200 làn điệu âm nhạc đặc sắc mà còn do những đặc điểm khác hiếm thấy ở dân ca các vùng khác. Từ lời ăn tiếng nói đến lối ứng xử hàng ngày hay trong ngày hội, "người Quan họ" đều từ tốn, khiêm nhường. Tục kết “chạ” giữa các làng Quan họ hay kết bạn giữa các "bọn" Quan họ đã hình thành nếp sống đạo đức cao quý. Người Quan họ đều là "liền anh", "liền chị" và bao giờ cũng tự xưng là "liền em". Với người Quan họ, ngày xưa khách đến phải là:
Mấy khi khách đến chơi nhà,
Lấy than, quạt nước tiễn trà người xơi.
Trà này ngon lắm người ơi,
Người xơi một chén cho tôi bằng lòng.
Và đến lúc phải về, cuộc chia tay thật khó dứt, vì lời ca bao giờ cũng như níu chân khách lại:
Người ơi, người ở đừng về...
Hội hát Quan họ thường gắn với hội chùa. Cho nên chùa là nơi tụ hội và đón nhận khách Quan họ. Có tới 49 làng hát quan họ, phân bố trong bốn huyện, thị phía nam tỉnh Bắc Ninh. Nhưng nói tới Quan họ, người ta nghĩ ngay đến Hội Lim. Lim là tên nôm của xã Lũng Giang xưa. Hội mở trên đồi, nơi có chùa Lim (chùa Hồng Ân). Hội Lim đông vui và nổi tiếng nhất trong các hội Quan họ. Hội mở vào ngày 13 tháng giêng, đúng phiên đầu năm của chợ Lim.
Đến hội Lim, khách du xuân được xem và nghe hát trên đồi, hát sau chùa, hát trên thuyền và hát trong các tư gia (hát trong nhà); lại có thể nghe hát đối từng cặp (đôi nam, đôi nữ), hoặc "bọn" nam, nữ. Khách hành hương, trẩy hội Lim còn được xem nhiều hoạt động văn hoá truyền thống khác của địa phương, hay tham dự các trò chơi đu bay, chọi gà, chọi chim, đấu vật, tổ tôm điếm... vốn là những trò chơi của hội làng cổ truyền mà hội Lim vẫn giữ lại như một di sản.
-VIEW : Bắc Ninh - Hội Lim.
ĐI HỘI LÀNG ( CHÙA PHẬT TÍCH - TIÊN DU - BẮC NINH ) 2011.
KHÁM PHÁ CHÙA PHẬT TÍCH ( TIÊN DU - BẮC NINH )_2013.
-VIDEO :ĐẤT & NGƯỜI TIÊN DU
Ảnh Thôn Giáo, Tri Phương, Tiên Du, Bắc Ninh 2012 :
-Tình Ca (Phạm Duy):
-VIDEO :Ngày trở về _ (Phạm Duy) _ Hoàng Oanh
(ASIA 21)
Lối Nhỏ_Lang Phu dong_2007_11_27
_Chuyện Phù Đổng Thiên Vương
-Thăm đền Gióng : (xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội)
Tượng Phù Đổng Thiên Vương tại ngã 6 Quận 1 _SAIGON
-Đền Thánh Gióng
-Trường làng tôi_ Tam ca áo trắng
-VIDEO :Khám phá Việt Nam cùng Robert Danhi_ bộ phim tài liệu 26 tập.
-VIDEO :Khám phá Việt Nam cùng Robert Danhi_
HỒN SÁCH CŨ…
-TÂM HỒN CAO THƯỢNG, EDMOND DE AMICIS_ Hà Mai Anh dịch
(HEART)
-Thơ ngụ ngôn La Fontaine
của , người dịch: Nguyễn Văn Vĩnh- Les Fables de Jean de La Fontaine
Cổ học tinh hoa. Nguyễn Văn Ngọc, Trần Lê Nhân
Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp Dự Bị - PDF Files: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12
QUỐC VĂN GIÁO KHOA THƯ :
Thưở thiếu thời, nhiều khi đọc một bài thơ hoặc một tác phẩm mà không hề biết tên thật hay con người thật của tác giả - nhưng có những câu thơ hoặc một đoạn văn, ở lại rất lâu trong lòng tôi... sống với tôi, nổi trôi với tôi - qua những thăng trầm, vinh nhục của cuộc đời .
Như bài «Kẻ ở người đi » trong quyển Quốc văn Giáo Khoa thư : Vừa ra khỏi nhà,thì trong lòng tôi tự nhiên sinh ra buồn rầu vô cùng . Từ thưở bé đến giờ, chỉ quen vui thú ở nhà, nay tôi mới biết cảnh cảnh biệt ly là một ! Chân bước đi, mặt còn ngoảnh lại : từ cái mái nhà, cái thềm nhà, cái lối đi, cho đến bụi cây đám cỏ, cái gì cũng làm cho tôi quyến luyến khác thường ! Thuyền đã nhổ sào, ai nấy đều chúc cho tôi thuận buồm xuôi gió, bình yên khoẻ mạnh. Thuyền đã đi xa, mà tôi còn đứng nhìn trở lại, nhìn mãi cho đến lúc không trông thấy nữa mới thôi. Ôi ! cái cảnh biệt ly sao mà buồn vậy !
Đời cũng trải qua nhiều cảnh biệt ly : Ôm gói quần áo bằng một đòn bánh tét, từ giã mẹ già dưới quê lên Tỉnh học - quảy một cái túi xách nhỏ lên vai, quay lại nhìn những khuôn mặt yêu thương rồi lửng thửng bước đi .. lên đường nhập ngủ - rồi cũng một túi xách, lần nầy cũ rách hơn,
nhìn lại ngôi nhà, nhìn lại những đôi mắt đẫm lệ... để buớc vào nhà tù cãi tạo…. Đời sao mà nhiều biệt ly như vậy !
Mỗi lần từ gĩã người thân yêu tôi thấm thía nhớ đến câu : `` Ôi ! cái cảnh biệt ly sao mà buồn vậy !``
TÔI ĐI HỌC
-VIEW :
No comments:
Post a Comment